BITEXCO - Góp phần định vị Việt Nam trên bản đồ kiến trúc thế giới và 3 bí quyết thành công
Chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng không chỉ hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà còn phát huy các giá trị truyền thống quý báu của từng dân tộc, của mỗi thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, tạo thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Đó là cơ sở để thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, là động lực mạnh mẽ của tiến trình phát triển đất nước hiện nay.
Trong hệ thống chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển luôn là nguyên tắc cơ bản được Đảng ta đề ra và được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), cũng như được khẳng định trong văn kiện các Đại hội, nghị quyết Hội nghị Trung ương của Đảng và trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Nguyên tắc này được cụ thể hóa thông qua hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi. Nhờ đó, kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có những bước phát triển. Trong các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới đều xác định, vấn đề dân tộc “có vị trí chiến lược lớn’’, “luôn luôn có vị trí chiến lược’’, “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”... Bởi vì, vấn đề dân tộc vừa là vấn đề giai cấp, vừa là vấn đề quốc phòng - an ninh và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong điều kiện của một quốc gia đa tộc người, đa dạng về văn hóa như ở Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng, trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế trong thực hiện chính sách về dân tộc, Đảng đã đề ra chủ trương: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”…
Cho đến nay, có thể nói hệ thống chính sách dân tộc được ban hành khá đầy đủ, nhằm hỗ trợ đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững; phát triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa; phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Các chương trình đã đem lại những hiệu quả tích cực về đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta trên tất cả các phương diện. Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm trung bình 3,5%/năm…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số ở nước ta phát triển vẫn còn chậm, kết cấu hạ tầng cơ sở còn nhiều bất cập, khó khăn. Thực tế đó là do: Một số chính sách còn thiếu tính cụ thể, khả thi, chưa phù hợp với thực tiễn đời sống và lao động của đồng bào dân tộc thiểu số. Bộ máy tổ chức thực hiện còn thiếu đồng bộ, đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu. Ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, có nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận và ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội để vươn lên, chưa sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Chính sách dân tộc hiện nay vẫn chủ yếu là các chính sách hỗ trợ trực tiếp, chưa có nhiều chính sách đầu tư, hỗ trợ có điều kiện, với mục đích cung cấp kỹ năng, tự tạo sinh kế bền vững cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Bởi vậy, trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, có nhiều người còn mang tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, không muốn vươn lên để thoát nghèo….
Từ nhu cầu thực tiễn đó của công tác dân tộc, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trong tình hình mới. Để làm tốt nhiệm vụ này, cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Trước tiên, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác quản lý nhà nước về phát triển các dân tộc thiểu số, trên cơ sở rà soát chính sách dân tộc hiện nay để điều chỉnh phù hợp với yêu cầu tình hình mới. Các chính sách dân tộc được xây dựng và ban hành phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc trưng văn hóa của từng vùng, miền, đặc điểm của từng dân tộc, từng địa phương; là động lực trực tiếp thúc đẩy bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và phát huy vai trò, tiềm năng thật sự của mỗi dân tộc.
Thứ hai, đổi mới, hoàn thiện cơ chế hoạch định và thực thi chính sách dân tộc. Hệ thống chính sách dân tộc liên quan đến nhiều lĩnh vực, do nhiều ngành chịu trách nhiệm quản lý nên cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan, nhất là các bộ chuyên ngành. Đồng thời nâng cao năng lực của cấp ủy và chính quyền các cấp trong vận dụng và tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với đặc điểm từng địa phương.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, gắn với dân hơn, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện. Công tác vận động quần chúng phải được coi là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của hệ thống chính trị các cấp, trong đó, cấp cơ sở có trách nhiệm chủ động, tự lực, trực tiếp thực hiện.
Thứ tư, nâng cao năng lực hoạt động, khả năng tổ chức thực hiện chính sách dân tộc đối với bộ máy thực hiện công tác dân tộc; Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở vùng dân tộc để công tác thực hiện chính sách dân tộc tại cơ sở được thực hiện hiệu quả hơn.
Trong thời gian trước mắt, cần đẩy mạnh thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể, bao gồm: Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở và vấn đề tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên, Tây Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khơ-me Nam Bộ. Làm tốt công tác định canh, định cư và di dân xây dựng vùng kinh tế mới; công tác quy hoạch, sắp xếp, phân bổ lại hợp lý dân cư, nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, gắn với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Tăng cường các hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở; ăn tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số; làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương./.
Nội dung: ThS. Đặng Thúy Ngân