25/04/2024 lúc 07:43 (GMT+7)
Breaking News

Đổi mới nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội

Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong quá trình hiện thực hóa CNXH là một vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, với chế độ và đất nước Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra một trong 5 bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam là: “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội thể hiện trước hết, tập trung nhất ở nội dung  phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Nội dung lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khi cầm quyền là những quyết định của Đảng về đường lối, chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) như sau: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu”[1].

Cụ thể, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng thể hiện ở: 1) Công tác hoạch định cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương của Đảng; 2) Công tác tư tưởng, tuyên truyền, thuyết phục; 3) Công tác tổ chức, cán bộ và thông qua tổ chức đảng, đảng viên hoạt động trong hệ thống chính trị; 4) Công tác kiểm tra, giám sát; 5) Vai trò gương mẫu của cán bộ đảng viên và mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân. Bài viết này sẽ góp phần tổng kết những vấn đề đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình gần 40 năm đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời làm rõ những quan điểm của Đảng về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền trong thời gian tới.

1. Tại sao phải đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội

Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng là một yêu cầu khách quan, một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng trong quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội. Bởi vì nói cho cùng, nội dung và phương thức lãnh đạo quyết định hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Vậy yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng xuất phát từ những nguyên nhân, điều kiện nào?

1.1. Đòi hỏi của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

Sau thắng lợi lịch sử Mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, một nhiệm vụ khổng lồ đặt ra cho Việt Nam là khôi phục kinh tế, hàn gắn những vết thương chiến tranh và khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, từng bước ổn định để tiến tới cải thiện đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên, ngay trong những ngày hòa bình đầu tiên thì biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã dậy sóng. Và với những khó khăn chồng chất, sự kiệt quệ cả sức người, sức của, Việt Nam lại phải dồn sức tổ chức cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới, hải đảo của Tổ quốc, cứu những người dân của đất nước láng giềng khỏi nạn diệt chủng tàn bạo. Trong khi đó, những thử nghiệm đầu tiên của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo theo hệ thống lý luận và kinh nghiệm đã có của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã không mang lại hiệu quả như mong muốn. Nền kinh tế đất nước lâm vào tình trạng trì trệ, sản xuất không đáp ứng được tiêu dùng. Một đất nước nông nghiệp chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong nền sản xuất nhưng thiếu lương thực trầm trọng. Cuộc sống của nhân dân không những không được cải thiện mà còn rơi vào khó khăn, thiếu thốn gay gắt.

Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa bắt đầu lâm vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Đặc biệt sự đổ vỡ của Liên Xô mùa thu năm 1991 kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực thế giới. Đó là thời điểm Việt Nam hầu như bị cách ly với thế giới. Không còn hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới có nghĩa là Việt Nam mất đi 95% quan hệ trao đổi kinh tế đối ngoại. Quan hệ ngoại giao và kinh tế với Trung Quốc đã bị rơi vào im lặng từ năm 1979, chưa được khôi phục. Sự đổ vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và những khó khăn về kinh tế xã hội dẫn đến sự khủng hoảng về niềm tin của nhân dân và một bộ phận cán bộ, đảng viên vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong điều kiện, hoàn cảnh ấy, sự đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng là một đòi hỏi cấp thiết, một yêu cầu sống còn không chỉ đối với Đảng Cộng sản mà cả đối với đất nước, chế độ.

1.2. Sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được xác định là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sáng tạo về đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở tính quy luật của thời kỳ quá độ lên CNXH và sự lựa chọn giá trị tích cực của nền kinh tế thị trường của thế giới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực sự trở thành một động lực thúc đẩy sự phát triển, mang lại những thành tựu to lớn cho nền kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, nó cũng làm nảy sinh không ít vấn đề mới mẻ, ảnh hưởng phức tạp đến đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam. 

Thứ nhất, sự xuất hiện và phát triển của nhiều thành phần kinh tế, nhiều chế độ sở hữu khác nhau tạo ra những quan hệ kinh tế, xã hội mới mẻ so với nền kinh tế bao cấp trước đây, đòi hỏi phải có những phương pháp, cách thức quản lý mới, phức tạp hơn.

Thứ hai, sự vận hành đầy đủ các quy luật của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu, tất yếu dẫn đến những quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng phức tạp hơn, ảnh hưởng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, thậm chí tác động nhất định đến thang giá trị xã hội, làm thay đổi văn hóa, lối sống của cả xã hội.

Thứ ba, trong môi trường của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những thách thức đặt ra cho Đảng cầm quyền không chỉ mới mẻ mà còn phức tạp hơn, nhất là những nguy cơ thách thức từ căn bệnh tham nhũng, lãng phí và tiêu cực.

1.3. Những thách thức mới về kinh tế, xã hội, môi trường, con người

Sự nghiệp Đổi mới thu được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, đời sống nhân dân được cải thiện toàn diện, trình độ dân trí được nâng lên. Nền kinh tế thị trường phát triển mạnh với các thành phần, đa dạng về sở hữu, định hướng XHCN từng bước được được thể hiện rõ ràng hơn. Tuy nhiên, vấn đề hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm; năng suất lao động, “chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh nền kinh tế chưa cao”.

Cơ cấu xã hội đã có những thay đổi to lớn, tầng lớp trung lưu phát triển nhanh (khoảng 20 triệu người), gia tăng phân hóa giàu - nghèo, bất bình đẳng thu nhập. Xu hướng già hóa dân số nhanh. Giảm nghèo chưa bền vững. Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn, bất cập…

Bốn nguy cơ mà Đảng đã cảnh báo (chệch hướng; tụt hậu; tham nhũng, lãng phí; diễn biến hòa bình) vẫn tồn tại, “có mặt còn gay gắt hơn”. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…, cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp”. Sự chống phá của các thế lực thù địch vẫn không giảm đi, còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Những vấn đề về an ninh phi truyền thống và tình hình an ninh khu vực đang đặt ra những thách thức lớn đối với đất nước trong thời gian tới.

1.4. Những đòi hỏi, yêu cầu mới về nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của hệ thống chính trị

Mặc dù “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đã được “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt”, nhưng trong thực tế vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Công tác tư tưởng có lúc có nơi chưa kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ, đảng viên toàn tâm, toàn ý với công việc. Năng lực, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng, đảng viên còn thấp. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chuyển biến chưa đều. Công tác phòng chống tham nhũng, lãnh phí, tiêu cực ở một số tổ chức, địa phương chưa chuyển biến rõ rệt, công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn mang tính hình thức. “Chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu nhất, chậm được khắc phục; năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ…”[2].

Cương lĩnh của Đảng năm 1991 chỉ ra yêu cầu và phương thức hoạt động của Nhà nước Việt Nam là quản lý bằng pháp luật: “Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra pháp luật và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”. Đến Cương lĩnh 2011 của Đảng đã xác định rõ ràng: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Tuy nhiên, việc chuyển từ tính chất “chuyên chính vô sản” thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ít phức tạp, đặt ra những thay đổi từ nhận thức, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ đến xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế, cơ chế vận hành, giáo dục pháp luật, lối sống cho nhân dân, v.v… Đại hội XIII của Đảng cũng đã chỉ ra những hạn chế của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN như: “Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện...”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ những hạn chế trong việc thực hành dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân: “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”.

1.5. Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam và những biến động của thế giới hiện nay

 Với đường lối “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, Việt Nam trở thành một quốc gia rộng mở, hội nhập sâu rộng với thế giới. Từ một quốc gia bị bao vây cấm vận sau chiến tranh, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia, vùng lãnh thổ trên tổng số 193 thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 3 nước “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên của trên 70 tổ chức quốc tế, có quan hệ với trên 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Riêng về kinh tế, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 230 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có khoảng 70 thị trường mà Việt Nam có kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt trên 100 triệu đô la Mỹ (USD). Năm 2021, tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam đạt 668,5 tỷ USD, so với Tổng giá trị sản phẩm quốc dân - GDP là 368 tỷ USD, bằng khoảng 180%. Trong gần 40 năm mở cửa hội nhập, Việt Nam cũng đã thu hút hơn 400 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó đã giải ngân trên 250 tỷ USD.

Cùng với kinh tế và ngoại giao, truyền thông của Việt Nam cũng mở cửa hội nhập quốc tế rất sâu rộng. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến giữa năm 2022, 70,3 % dân số Việt Nam đã sử dụng Internet. Hầu hết các hãng truyền thông đại chúng lớn trên thế giới đều có mặt và cung cấp nguồn thông tin ở Việt Nam. Sự mở cửa hội nhập mạnh mẽ về truyền thông đại chúng mang lại nhiều lợi ích cho phát triển đất nước, xong cũng kéo theo không ít hệ lụy về văn hóa, tư tưởng chính trị, tạo nên những thay đổi to lớn môi trường xã hội…

Có thể nói, toàn bộ những thay đổi về mục tiêu, yêu cầu, điều kiện, đối tượng, bối cảnh trong nước và quốc tế là sự quy định khách quan việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong quá trình xây dựng CNXH.

2. Những đổi mới về nội dung  lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội

Đổi mới nội dung lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hiện thực hóa CNXH tập trung chủ yếu ở 4 trụ cột đường lối: Phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, động lực của phát triển kinh tế - xã hội; quốc phòng, an ninh là trọng yếu và thường xuyên.

2.1. Đổi mới đường lối phát triển kinh tế

Bước đột phá có tính quyết định trong đổi mới đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam được mở ra từ Đại hội 6 của Đảng, tháng 12-1986. Trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, từ kết quả tổng kết thực tiễn 10 năm xây dựng đất nước, chắt lọc những sáng kiến của nhân dân và tiếp nhận có chọn lọc những bài học của các nước XHCN trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhìn nhận những tính chất của nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung không còn phù hợp với yêu cầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, từ đó đi đến quyết định xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa hợp tác quốc tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở định hướng từ Đại hội 6 của Đảng, Đại hội 7 năm 1991 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991), xác định chủ trương: “Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, còn lại các thành phần kinh tế: tập thể, cá thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế gia đình, đều được quyền phát triển dưới sự quản lý của Nhà nước. Các hình thức sở hữu được kết hợp với nhau thành “các tổ chức kinh tế đa dạng”; các tổ chức kinh tế được quyền “tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh”.

Cương lĩnh 2011 của Đảng hoàn thiện thêm một bước đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó xác định đặc trưng kinh tế trong mô hình CNXH của Việt Nam là: “có nền kinh kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Từ chỗ chỉ công nhận “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” (Cương lĩnh 1991) đến việc mở rộng ra “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” là cả một bước đi xa về nhận thức lý luận trên cơ sở những nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo Cương lĩnh 2011, đường lối phát triển kinh tế được cụ thể hóa là: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”.

Sự đổi mới đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản, mở ra con đường phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực sự một cuộc cách mạng về nhận thức và thực tiễn, dẫn đến những thành tựu lịch sử toàn diện về xây dựng và phát triển của Việt Nam.

2.2. Đổi mới đường lối xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Trên cơ sở nhận thức về tính chất, yêu cầu của công cuộc xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có diễn đạt mới về Đảng. Thay vì xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” (Cương lĩnh 1991), Cương lĩnh 2011 của Đảng diễn đạt: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Với nội dung diễn đạt mới, tính đại diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở rộng ra phạm vi cả dân tộc. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ tính chất là “đội tiên phong của giai cấp công nhân”, thể hiện tính chất cách mạng, tiến bộ của giai cấp công nhân, vẫn lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức. Cách diễn đạt mới thể hiện đường lối của Đảng tập trung chủ yếu cho mục tiêu phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần lao động sáng tạo của nhân dân, thực hiện thành công các mục tiêu đặt ra cho công cuộc xây dựng CNXH.

Trong quá trình thực hiện đường lối Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam   không ngừng tổng kết, đánh giá về vai trò, tính chất, yêu cầu, kết quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng để rút ra những bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở những bài học đó, Đảng đã dần dần đổi mới chủ trương về công tác xây dựng Đảng, chủ yêu tập trung ở các nội dung: Thứ nhất, Đảng xác định, cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó là “kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể” của đất nước, “kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại”. Thứ hai, Đảng phải “thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo”. Thứ ba, nhấn mạnh hơn mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân, củng cố niềm tin của dân đối với Đảng, Đảng dựa vào dân để xây dựng, Đảng chịu sự giám sát của dân. Thứ tư, Đảng phải “chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, sức chiến đấu” ngang tầm nhiệm vụ. Thứ năm, thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ sự đoàn kết của Đảng.

Sự đổi mới quan trọng nhất trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước là từ nhà nước chuyên chính vô sản trước Đổi mới đến chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Nghị quyết Đại hội IV của Đảng xác định: “Nhà nước chuyên chính vô sản của ta phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân, một tổ chức đủ năng lực tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới”[3]. Đến Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994, chủ trương về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được Đảng chính thức xác lập. Tại Cương lĩnh 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định một lần nữa, “nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” là một trong 8 đặc trưng của mô hình CNXH Việt Nam.

2.3. Đổi mới đường lối xây dựng văn hóa, con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Xét một cách tổng thể, có thể nói đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng văn hóa, con người là tương đối nhất quán trong cả quá trình cách mạng. Những đổi mới trong lĩnh vực này chủ yếu là ở các mức độ, khía cạnh như: Cụ thể hóa đường lối thành các chủ trương rõ hơn; nhận thức sâu sắc hơn về các quan điểm; cập nhật các quan điểm, chủ trương chung cho phù hợp với điều kiện, bối cảnh mới và đổi mới về nội dung, giải pháp tổ chức thực hiện.

Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Đó là sự khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa với tư cách là sức mạnh dẫn dắt đời sống mọi mặt của đất nước. Theo tinh thần ấy, Đề cương văn hóa của Đảng năm 1943 xác định 3 tính chất của nền văn mới là dân tộc, khoa học, đại chúng. Cương lĩnh 2011 làm rõ hơn vai trò của văn hóa với tính cách là một trong 4 trụ cột chính sách của Đảng, văn hóa là “nền tảng tinh thần vững chắc” của xã hội, là “sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Từ tổng kết đánh giá tình hình thực tế, nhất là chỉ ra sự phát triển chưa đồng bộ, hợp lý mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI, ngày 14/5/2014 nhấn mạnh quan điểm hàng đầu về văn hóa: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Với vai trò to lớn ấy, Đảng xác định yêu cầu đặt ra là xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, một nền văn hóa “thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.

Về con người, quan điểm về mục tiêu cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay từ khi thành lập Đảng, đó là đấu tranh nhằm mang lại tự do, hạnh phúc cho con người. Từ năm 1953, trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là để “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức”. Cương lĩnh 1991 làm rõ hơn quan điểm về con người trong mô hình CNXH mà đất nước hướng tới. Đó là: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều phát triển toàn diện cá nhân”. Cương lĩnh 2011 tiếp tục hoàn thiện nhận thức về con người, đặt “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”. Nói cách khác, con người vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH. Từ quan điểm đó, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam được từng bước đổi mới, hoàn thiện trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, theo hướng ngày càng tạo điều kiện để cải thiện toàn diện đời sống của nhân dân, ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển toàn diện, hài hòa của con người. Cụ thể hơn, yêu cầu đặt ra là tăng trưởng kinh tế đồng thời với xây dựng văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách; bảo đảm cho người dân được thụ hưởng đầy đủ những thành tựu của phát triển.

2.4. Đổi mới đường lối quốc phòng, an ninh, đối ngoại

Quá trình đổi mới đường lối quốc phòng, an ninh và đối ngoại gắn liền với quá trình nhận thức lý luận và thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước mà mở đầu là quan điểm được khẳng định tại Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1996): “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Đây là sự đổi mới tất yếu trong điều kiện, bối cảnh mới của thế giới, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định nhất quán đường lối đó và tuyên bố rõ hơn về trách nhiệm trong hợp tác: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.

Cụ thể hóa đường lối đối ngoại trên, với tinh thần thêm bạn, bớt thù, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ, mở rộng hợp tác phát triển, Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (năm 2003) ra Nghị quyết về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và xác định quan điểm về đối tác, đối tượng. Mười năm sau, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (25-10-2013) đã xác định rõ hơn quan điểm đối tác - đối tượng, trong đó: Đối tác là những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam; Đối tượng là “bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Quan điểm đối tác - đối tượng thể hiện một cách nhìn biện chứng về bối cảnh thế giới, làm cho chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng mềm mại, uyển chuyển hơn, mở ra điều kiện thuận lợi cho mở rộng hợp tác phát triển, tăng cường hội nhập quốc tế toàn diện của đất nước.

Về quốc phòng, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định quan điểm 4 không: Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Quan điểm 4 không là kết quả nhận thức lý luận mới của Đảng về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cũng là kết quả của việc tổng kết những bài học kinh nghiệm từ thực tế công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Đến lượt nó, đường lối quốc phòng, an ninh, đối ngoại theo quan điểm 4 không là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho những thành tựu to lớn, toàn diện của đất nước trong giai đoạn vừa qua.

3. Những đổi mới về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội

Những đổi mới về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội tập trung ở việc đổi mới các bình diện: Công tác hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng; công tác tư tưởng; công tác tổ chức, cán bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát và cán bộ, đảng viên nêu gương, gắn bó mật thiết với nhân dân.

3.1. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương

Trước hết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991). Sau 20 năm, trên cơ sở các kết quả mới về nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, Đảng đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991 để xây dựng nên Cương lĩnh 2011. Trong suốt quá trình xây dựng phát triển đất nước gần 40 năm qua, Cương lĩnh thực sự trở thành ngọn cờ định hướng, tập hợp lực lượng, đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công những nhiệm vụ chính trị to lớn và quan trọng.

Phù hợp với bối cảnh, điều kiện mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đổi mới quy trình ra nghị quyết, chỉ ra nghị quyết đối với những vấn đề lớn, có tầm quan trọng với đất nước. “Nghị quyết phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi, phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả; phân công trách nhiệm tổ chức, cá nhân, thời hạn hoàn thành các nhiệm vụ, giải pháp được ghi trong nghị quyết”[4]. Đặc biệt, đối với Cương lĩnh, các văn kiện của các kỳ đại hội Đảng được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến thảo luận, góp ý của nhân dân. Đảng tập hợp ý kiến của nhân dân để cân nhắc trong việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng Cương lĩnh và các văn kiện, làm cho các quyết sách của Đảng vừa đảm bảo định hướng XHCN, vừa thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc, bảo đảm cho chất lượng, sự đồng thuận của nhân dân, biến các quyết tâm chính trị của Đảng thành quyết tâm chính trị của nhân dân.

 Nhìn chung, trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã có những bước tiến quan trọng. Những biểu hiện chưa hợp lý như Đảng làm thay cơ quan nhà nước, tác động bằng các chỉ thị trực tiếp, đã dần dần được khắc phụ. Phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã chuyển hẳn sang hướng: Đảng hoạch định đường lối thông qua các nghị quyết, rồi từ nghị quyết của Đảng, Nhà nước thể chế hoá thành luật pháp, cụ thể hóa thành các chính sách và dựa vào nhân dân để tổ chức lực lượng thực hiện. 

3.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng công tác tư tưởng

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định công tác tư tưởng, bao gồm các hoạt động nghiên cứu lý luận, tuyên truyền, thuyết phục, vận động, là “một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ”. Đo đó, làm tốt công tác tư tưởng chính là một yếu tố sống còn bảo đảm vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nhằm thực hiện thành công các nhiệm vụ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở nhận thức ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi trọng, đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng.

Trước hết, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng việc hoạch định chủ trương chỉ đạo đối với công tác tư tưởng. Liên tiếp hai nhiệm kỳ IX (2001-2006) và nhiệm kỳ X (2006-2011), Đảng ban hành hai nghị quyết lớn về công tác tư tưởng: Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 18/3/2002, Hội nghị Trung ương 5 khoá IX về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 01/8/2007, Hội nghị Trung ương 5 khoá X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới.

Công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục lý luận được Đảng quan tâm, có nhiều biện pháp để đổi mới, tăng cường hiệu quả. Hệ thống trường Đảng được xây dựng, củng cố từ trung ương đến cấp huyện, được đổi mới, cập nhật cả về nội dung và phương pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Năm 1997, Bộ Chính trị Trung ương Đảng thành lập Hội đồng Lý luận Trung ương, cơ quan chuyên trách nghiên cứu và tư vấn những vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH của đất nước. Hệ thống báo chí, truyền thông được coi là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, được đầu tư phát triển đa dạng, phong phú và hiện đại, đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng đa dạng, phong phú của các tầng lớp nhân dân. Các phương tiện truyền thông mới được tạo điều kiện để phát triển nhanh với phương pháp quản lý hợp lý nhằm phát huy vai trò tích cực của chúng trong công tác tư tưởng của Đảng, Nhà nước. Bắt đầu hoạt động từ năm 1997, đến nay Internet đã trở thành một phương tiện truyền thông phổ biến ở Việt Nam với số người dùng chiếm 70,3% dân số.

Cùng với công tác tuyên truyền, giáo dục hệ tư tưởng, tuyên truyền phổ biến đường lối, chính sách, pháp luật, Đảng còn tăng cường lãnh đạo, làm tốt công tác đấu tranh tư tưởng, phê phán, lên án tiêu cực, tham nhũng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; đấu tranh phản bác các quan điểm chính trị sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng và đường lối của Đảng.

3.3. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng công tác tổ chức, cán bộ

Trong quá trình Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng công tác tổ chức nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Theo chủ trương này, năm 1999, Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy khoá VIII: Một số vấn về đề tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước. Các năm sau đó 2007 và 2017, Trung ương Đảng đều có các nghị quyết quan trọng về công tác tổ chức nhằm mục đích sắp xếp lại hệ thống tổ chức các cơ quan của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động cho phù hợp với yêu cầu thực tế của công cuộc xây dựng phát triển đất nước.

Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của công tác cán bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nguyên tắc: Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ. Đồng thời, Đảng đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ từ đào tạo, bồi dưỡng, chọn lọc, rèn luyện thực tế, đến quản lý, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật. Năm 1997, Đảng ban hành Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đặt mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội.

Sau hơn 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết, đánh giá lại tình hình thực hiện Chiến lược cán bộ và ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Nghị quyết xác định, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả; đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.

Kết quả của việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng bằng công tác tổ chức, cán bộ chính là một yêu tố then chốt đảm bảo cho Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền đối với Nhà nước và xã hội, thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc Đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN.

3.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát

Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được chỉ đạo tập trung, quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp. Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, Đại hội IX (2001) đã quyết định chuyển trọng tâm sang kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm; Đại hội X (2006) bổ sung thêm công tác giám sát. Đảng quyết định công khai kết luận về kết quả kiểm tra và xử lý sai phạm. Trong thời gian từ nhiệm kỳ Đại hội XII, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng đạt nhiều kết quả quan trọng.

Hai nội dung giải pháp được đổi mới và tăng cường trong công tác kiểm tra, giám sát là: giám sát quyền lực và nhân dân tham gia kiểm tra giám sát, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ đạo công tác nghiên cứu, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng vị trí công việc, trên cơ sở đó để xây dựng các giải pháp quản lý cán bộ, giám sát quyền lực, hạn chế việc lợi dụng quyền lực một cách vụ lợi. Đảng cũng đã có những quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng, các tổ chức nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức nhân dân, và một cách trực tiếp. 

Thực tế cho thấy, công tác kiểm tra được chỉ đạo đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, tạo bước đột phá mới trong công tác phát hiện, xử lý tham nhũng. Trong giai đoạn 2012-2022, Đảng đã thi hành kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến 6-2022, Đảng đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 Ủy viên, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng. Kết quả của công tác đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã được nhân dân ủng hộ tích cực, góp phần củng niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nâng cao uy tín và hiệu lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

3.5. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, sự gắn bó mật thiết cán bộ, đảng viên với nhân dân

Trong quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, hiện thực hóa CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, tầm quan trọng và ý nghĩa của vai trò gương mẫu và sự gắn bó mật thiết của cán bộ, đảng viên với nhân dân.

Người Việt Nam có câu thành ngữ “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” để nói về vai trò gương mẫu, tiên phong của người đảng viên cộng sản. Muốn gương mẫu, cán bộ đảng viên phải có cả tài và đức. Trên cơ sở ấy, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định 3 tiêu chí đánh giá cán bộ là phẩm chất chính trị, năng lực công tác và phẩm chất đạo đức, lối sống. Hằng năm, mỗi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm tự kiểm điểm, giải trình trước tổ chức đảng về 3 tiêu chí đó. Đồng thời, Đảng chủ trương tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức, đặt yêu cầu cụ thể với mỗi cán bộ, đảng viên về tự rèn luyện, hoàn thiện về phẩm chất đạo đức, xứng đáng là người lãnh đạo, cầm quyền của nhân dân.

Một trong những giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ với nhân dân, Đảng quy định rõ trách nhiệm cán bộ, đảng viên hằng năm phải đăng ký sinh hoạt hai chiều với tổ chức đảng nơi cư trú. Nhận xét hằng năm của tổ chức đảng nơi cư trú là một căn cứ để đánh giá đối với đảng viên. Sinh hoạt hai chiều không chỉ để cán bộ, đảng viên gần gũi hơn với người dân, mà còn thông qua đó giáo dục cán bộ, đảng viên ý thức trách nhiệm với nhân dân.

Đặc biệt, ý kiến của nhân dân là một điều kiện bắt buộc trong quy trình nhận xét, đánh giá hay bổ nhiệm cán bộ, nhất là đối với cán bộ cấp chiến lược. Đồng thời Đảng yêu cầu những đảng viên giữ chức vụ trong tổ chức Đảng, Chính phủ hay các tổ chức nhân dân phải có các cuộc tiếp xúc định kì để lắng nghe ý kiến nhân dân.

Vai trò gương mẫu, sự gắn bó mật thiết với nhân dân là một điều kiện quan trọng, một trong số ít yếu tố quyết định niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đến lượt mình, niềm tin của nhân dân trở thành quyền lực chính trị của Đảng, điều kiện để Đảng nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của mình. Như Hồ Chí Minh đã chỉ ra, “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”[5].

*

Tóm lại, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong quá trình hiện thực hóa CNXH là một vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, với chế độ và đất nước Việt Nam. Song đây cũng là vấn đề rất phức tạp, nhạy cảm, vì thế phải được đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, gắn với mục đích thực hiện thành công các nhiệm vụ xây dựng CNXH, không để các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá. Do tính chất đặc biệt quan trọng của việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng nên các giải pháp phải phù hợp, lộ trình, bước đi thận trọng, vững chắc, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Đồng thời cũng đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, tính kỷ luật nghiêm minh của toàn Đảng, cũng như sự đồng thuận, ủng hộ rộng rãi của nhân dân./.

GS.TS. Tạ Ngọc Tấn

Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.88-89.

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 94.

[3] Văn kiện Đảng toàn tập, t. 37, tr. 948.

[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, sđd, tr.216.

[5] Xem: Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2011, tập 5, tr. 325-326.

...