23/04/2024 lúc 20:45 (GMT+7)
Breaking News

Y Sơn thắng tích, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống

Từ trung tâm huyện lỵ Hiệp Hòa (Bắc Giang) nhìn về hướng Tây Bắc chúng ta sẽ thấy một ngọn núi xanh mướt bóng thông, đó chính là núi Y Sơn đột khởi tựa viên ngọc châu soi mình xuống dòng sông Cầu thơ mộng. Bốn bề là ruộng lúa, nương dâu, bãi màu xanh ngắt, cùng những xóm làng tọa lạc quanh sườn núi, tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình, hấp dẫn đến nao lòng lữ khách hành hương.

Từ trung tâm huyện lỵ Hiệp Hòa (Bắc Giang) nhìn về hướng Tây Bắc chúng ta sẽ thấy một ngọn núi xanh mướt bóng thông, đó chính là núi Y Sơn đột khởi tựa viên ngọc châu soi mình xuống dòng sông Cầu thơ mộng. Bốn bề là ruộng lúa, nương dâu, bãi màu xanh ngắt, cùng những xóm làng tọa lạc quanh sườn núi, tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình, hấp dẫn đến nao lòng lữ khách hành hương.

Là một trong 26 xã, thị trấn của huyện Hiệp Hòa, xã Hòa Sơn với 15 thôn làng quần tụ đông vui thực sự là một miền quê có lịch sử lâu đời và truyền thống văn hiến, vốn được tạo lập nên từ rất xa xưa. Đó là những xóm làng nằm trọn trong miền Y Sơn, từ thời Hậu Lê đã nổi tiếng là "danh lam thắng địa", lung linh huyền thoại và đầy chất thi ca. Đây cũng chính là "hành cung nhà Lê" như sử cổ biên đã chép.

Qua quá trình lịch sử lập làng, giữ nước, người dân Hòa Sơn đã đoàn kết chặt chẽ để tạo dựng nên một đời sống vật chất và văn hóa tinh thần phong phú, đa dạng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, xứng với lời ngợi ca đã được khắc ghi trong bảng vàng, bia đá "Mỹ tục khả phong" (tục đẹp đáng khen).  Truyền thống và chứng tích đó luôn được nuôi dưỡng, duy trì và bảo lưu trong quần thể đền-chùa Y Sơn-nơi được mệnh danh là một vùng danh lam cổ tích.

Toàn cảnh chùa Y Sơn

Từ rất xa xưa, nhân dân Hòa Sơn đã tôn thờ, ngưỡng vọng Đức Thánh Hùng Linh-người có công giúp Hùng Vương dẹp giặc Ân ở thế kỷ thứ VI, giữ cho đất nước bình yên, nay lại ra tay diệt loài hổ báo trên núi Y Sơn, giúp cho muôn dân được yên ổn đời sống, khi thác đi đã được hiển Thánh về trời. Việc tôn thờ được Ngài được biểu hiện ở việc dựng đền, chùa để thờ phụng và tổ chức tế, lễ, hội hè vào các dịp "xuân thu nhị kỳ". Hệ thống thờ tự Đức Thánh Hùng Linh ở vùng Hòa Sơn khá đặc sắc, phong phú và rất trang trọng, tôn nghiêm.

Đền Y Sơn là tên thường gọi của đền IA nằm ở phía Đông của dãy núi Y Sơn, nên còn có tên chữ là Y Sơn Đông từ, nơi đây thờ Đức Thánh Hùng Linh-người có công giúp vua Hùng dẹp giặc Ân, mang lại bình yên cho đất nước.

Đây vốn là một công trình kiến trúc cổ với bình đồ kiến trúc kiểu nội công () ngoại quốc ()khá hoành tráng gồm cổng, tòa phương đền chồng diêm 2 tầng 8 mái 12 đao cong vút ngạo nghễ, đi qua hai dãy hành lang là đến tòa Tiền tế 5 gian, tại đây đặt đôi voi đá, ngựa đá và nhiều đồ thờ khác, đồng thời cũng là nơi hành lễ. Tiếp đến tòa Trung đường 5 gian đặt đồ tế khí nối thông với Hậu cung 3 gian bởi một dải ống muống 2 gian. Đây là nơi ngự tọa của Đức Y Sơn với long ngai, bài vị, tượng thờ sơn son thếp vàng lộng lẫy. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử dân tộc, di tích đền Y Sơn hiện còn bảo lưu được nhiều hiện vật thần khí, tế khí được tạo tác bằng nhiều chất liệu khác nhau: Đá, đồng, gỗ, vải, giấy… vô cùng quý giá và tinh xảo như: Quạt lớn bằng ngà voi, lư hương đồng đúc vào thời "Đại Minh Tuyên Đức" thế kỷ thứ XV, đai vàng nạm ngọc khảm đồi mồi, hoành phi, câu đối cổ cùng 21 đạo sắc phong của các triều đại từ triều Hậu Lê, Tây Sơn đến triều Nguyễn.

Chùa Y Sơn xưa thuộc vùng đất Thù Sơn, Thù Cốc của tổng Quế Trạo (nay là xã Hòa Sơn, huyện Hiệp Hòa). Ngôi chùa cổ này gắn liền với thời kỳ du nhập đạo Phật vào vùng đất Bắc Giang nên mang huyền thoại hấp dẫn, trong đó truyền tích về đức Thánh Hùng Linh Công và Thánh Phụ, Thánh Mẫu vừa mang sắc thái tín ngưỡng dân gian vừa nhuốm màu Phật pháp Đại Việt.

Ban đầu, ngôi chùa cổ tọa lạc bên sườn đông núi Y Sơn, đến thời Nguyễn niên hiệu Khải Định thứ 2 (1917), nhân dân địa phương di chuyển ngôi chùa sang sườn Tây núi Y Sơn để hợp với cảnh quan và địa thế nên chùa còn có tên chữ là Y Sơn Tây tự. Núi Y Sơn dân gian còn gọi núi IA hay núi Cả, đột khởi giữa vùng đồi gò và ruộng vườn rộng phẳng, với độ cao 103 m so mặt nước biển. 

Sách Đại Nam nhất thống chí và Bắc Ninh tỉnh chí thời Nguyễn có ghi về núi Y Sơn như sau: “lên đỉnh núi Ia có thể nhìn xa xung quanh, đời Lê từng dựng hành cung ở đây, trên núi có Miếu Sơn thần. Cảnh sắc nơi đây nhuốm màu huyền thoại, có núi cao, sông dài (sông Cầu) nên hội tụ đủ linh khí, thế núi voi phục, hổ chầu tạo nên quần thể di tích danh thắng nổi tiếng xứ Kinh Bắc. Sự tích về Đức Thánh Hùng Linh Công được hoài thai từ ngôi chùa cổ trên núi Y Sơn lại mang màu sắc huyền diệu Phật Pháp càng tăng sự hấp dẫn cho khu di tích danh thắng này.

Theo bản thần tích ở địa phương do Hàn Lâm Viện, Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) được sao lục vào năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) và năm Thành Thái thứ 7 (1898) cho biết: Vào thời Hùng Vương thứ 6, quan tư xứ Kinh Bắc là Hùng Nhạc, vợ là Cao Tiên tuổi đã cao mà chưa có con thường đi du ngoạn nhiều nơi cầu tự. Ông bà đến vùng núi Y Sơn nghỉ lại ở ngôi chùa nhỏ, sau về bà Cao Tiên có thai sinh được nam tử đặt tên là Hùng Linh Công. Lớn lên Hùng Linh Công khôi ngô tuấn tú, kỳ tài. Lúc bấy giờ lang thú hoành hành quấy phá, giặc Ân sang xâm lược nước ta, nhân dân đói khổ. Theo lệnh của nhà vua, Hùng Linh Công đi dẹp loạn lang thú, lại cùng Phù Đổng Thiên Vương (tức Thánh Gióng) đánh tan giặc Ân bảo vệ đất nước. Ghi nhớ công ơn, nhân dân địa phương xây dựng đền Y Sơn thờ Hùng Linh Công và thờ Thánh Phụ, Thánh Mẫu (cha mẹ Hùng Linh Công) tại chùa Y Sơn. 

Lối vào khu thắng tích đền-chùa Y Sơn

Ngôi chùa có kết cấu kiến trúc khác lạ so với nhiều ngôi chùa cổ ở miền Bắc nước ta. Tổng thể kết cấu các khối kiến trúc bao gồm: nhà Phật đình hương hội, tòa Tam bảo và nhà Hậu điện. Trải bao năm tháng nên dấu ấn ngôi chùa cổ hiện nay chỉ còn bảo lưu được nét kiến trúc và đồ thờ của thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVIII) và thời Nguyễn (thế kỷ XIX).

Tam quan chùa Y Sơn mới được tôn tạo lại, kiến trúc kiểu gác chuông hai tầng mái. Nhà Phật đình hương hội phía trước toà Tam bảo đã bị hư hỏng trong những năm kháng chiến chống Pháp nay được phục dựng lại theo lối kiến trúc xưa gồm ba gian, hai chái, 4 mái đao cong. Kết cấu khung liên kết vì mái kiểu chồng rường giá chiêng, chạm khắc đơn giản. 

Tòa Tam bảo bố cục kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm toà Tiền đường 5 gian nối toà Thượng điện 3 gian xây bít đốc. Khung liên kết vì mái kiểu kẻ truyền, chồng rường giá chiêng, các cấu kiện kiến trúc chạm khắc hình hoa lá, vân mây in đượm màu thời gian cổ kính. Toà Thượng điện ba gian, khung liên kết vì mái kiểu chồng rường giá chiêng và cốn mê. Các cấu kiện kiến trúc cũng chạm khắc nổi hình hoa lá, văn kỷ hà rất tinh tế. Tòa này bài trí đủ hệ thống tượng Phật uy nghi. Tòa Hậu điện (đền Thánh Mẫu) ở phía sau Tam bảo cũng được tu sửa lại gồm 3 gian, kết cấu khung vì mái đơn giản kiểu vì giá chiêng và vì kèo trốn trụ. Hậu điện bài trí tượng Thánh Phụ, Thánh Mẫu và tượng Sư Tổ trụ trì ở chùa.

Hiện nay, trong chùa còn bảo lưu được hệ thống tượng Phật có giá trị nghệ thuật, các tài liệu khoa học phong phú như: bốn bài vị đá thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVIII) ghi tên những người đã về Tây phương công đức lớn cho việc xây dựng tu sửa chùa Y Sơn, một bia đá “Hậu Phật bi ký” dựng năm 1864, đôi nghê gỗ thời Nguyễn (thế kỷ XIX)..., hệ thống hoành phi và đôi câu đối cổ của cụ Nghè Sổ Đình Nguyên Nguyễn Đình Tuân-ông là vị tiến sĩ cuối cùng của khoa thi thời phong kiến của nước ta.

Ngôi chùa còn là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945, là một trong những điểm di tích thuộc hệ thống An toàn khu II ở Hiệp Hòa. Tại chùa Y Sơn diễn ra buổi diễn thuyết tuyên truyền về tinh thần Nghị quyết Hội nghị tháng 11 năm 1939 của T.Ư Đảng ngày 5 tháng 3 năm 1940. Ngày 12 tháng 7 năm 1945, tại chùa Y Sơn còn diễn ra cuộc mít tinh lớn biểu dương lực lượng cách mạng của Đảng ta.

Chùa Y Sơn là trung tâm sinh hoạt văn hóa tôn giáo, nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương. Lễ hội ở đây có nét đặc trưng hiếm thấy ở xứ Bắc, diễn ra trong phạm vi rộng, gọi chung là hội vùng Y Sơn (hay hội IA).

Hội đền-chùa Y Sơn được tổ chức vào ngày tết Thượng Nguyên (15 tháng Giêng âm lịch ) còn gọi là hội Phu Nhân Thánh Mẫu. Theo quy định của dân, cứ 3 năm chùa lại mở hội to một lần theo đúng nghi thức cổ truyền (trong 3 ngày: 15, 16, 17 tháng Giêng ) còn các năm khác thì chỉ tổ chức hội lệ trong thời gian 1 ngày.

Phiến Thạch linh tại đền Y Sơn

Trước đây, lễ hội Y Sơn là của 3 xã (gồm: Hoà Sơn, Mai Sơn, Thù Cốc); Lục Giáp (Hương Trù, Hoà Thuận, Tiên Cảnh, Trại Chuyên, thuộc xã Hoà Sơn) và giáp Thù Cốc; giáp Mai Sơn. Giáp nào đứng ra đăng cai sẽ phải chịu trách nhiệm toàn bộ mọi công việc diễn ra trong dịp hội. Tuy nhiên, giáp đăng cai không phải thửa voi, ngựa, còn 5 giáp, mỗi giáp phải thửa một cỗ voi, hai cỗ ngựa (một hồng, một bạch), vị chi là 5 cỗ voi, 10 cỗ ngựa. Voi có bành, ngựa có yên đều phải đặt trên giá có bánh xe để di chuyển được dễ dàng và một tàu che. Mỗi giáp lại phải tuyển chọn 1 nam làm quản tượng và 3 nữ làm tướng cưỡi trên những cỗ voi, cỗ ngựa của giáp mình. Tiêu chuẩn chọn tướng và quản rất nghiêm ngặt, chỉ được trong độ tuổi 16, 17 đẹp người, đẹp nết, đẹp gia phong, chưa vợ, chưa chồng. Nói theo chữ trong " Phái hội Y sơn " thì nam thanh, nữ tú phải "sắc vụ tinh hoa, y mạo đoan nghiêm ".

Năm nam mặc quần áo quản tượng, 15 nữ mặc quần lụa, áo dài lụa, đội khăn lụa mầu sắc xanh, đỏ, tím, vàng theo cổ truyền, chân đi hài. Trước ngày lễ hội, các tướng và các quản đều phải luyện các nghi thức và những thao tác khi hành lễ. Khó nhất là lễ "rún". Nữ tướng khi lễ hai tay đặt trước ngực, tay phải đặt trên tay trái đặt dưới trong tư thế trang nghiêm, mắt nhìn thẳng, hai chân từ từ run xuống, khi đầu gối đặt chạm tới đất thì gập người xuống rồi lại từ từ ngẩng lên, 4 lần thư thế là 4 lễ. Còn nam quản tượng tay phải cầm cờ đuôi nheo vác vai, tay trái đặt lên ngực cũng lễ rún như nữ. Khi hai gối đặt tới chiếu, tay phải phất cờ rồi từ từ gập người xuống rồi lại từ từ ngẩng lên, bốn lần như vậy - tức bốn lễ. Lễ "kéo quân đập đất". "kéo chữ" cũng được luyện tập trước cho tất cả đều phải thành thạo.

Ngoài những cuộc tế lễ, dẫn rước theo nghi thức cổ truyền, hội còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian như: đánh đu, bịt mắt bắt dê (con dê thật), nhảy phỗng, đánh cờ người, diễn tuồng, hát chèo và nhiều trò chơi dân gian độc đáo khác…

Những nghi thức tế lễ trong lễ hội đền-chùa Y Sơn đã thể hiện truyền thống "uống nước nhớ nguồn" tốt đẹp của dân tộc. Những truyền thống đó được duy trì, nuôi dưỡng và phát triển trong trường kỳ lịch sử và trong công cuộc đổi mới hôm nay.

Hiện tại, quần thể cụm di tích đền-chùa Y Sơn núi IA đã và đang được các cấp, các ngành cùng Đảng, chính quyền và các thế hệ nhân dân địa phương quan tâm gìn giữ, tu bổ và nhân dân xã Hòa Sơn luôn có tinh thần bảo vệ, trông coi  nhằm gìn giữ dài lâu một khu di tích và danh lam thắng tích cổ, một trung tâm sinh hoạt văn hóa tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân trong vùng giáp ranh 3 tỉnh này. Có thể thấy, quần thể di tích đền-chùa Y Sơn đang được khai thác, phát huy khá hiệu quả trong việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Hòa Sơn nói riêng, nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang nói chung.

Với những giá trị to lớn về kiến trúc, lịch sử, văn hóa truyền thống, đền Y Sơn được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng Di tích Kiến trúc nghệ thuật (Quyết định số 372/QĐ-BT ngày 10-3-1994); Đến ngày 20-6-2018, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã có Quyết định số 2327 cấp Bằng công nhận xếp hạng cấp Quốc gia cho di tích chùa Y Sơn là Di tích Lịch sử-Văn hóa.