28/03/2024 lúc 22:58 (GMT+7)
Breaking News

Xây dựng hoàn thiện thể chế phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo

Trên thế giới, sự phát triển các hình thức kinh tế mới gắn liền với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, dẫn tới sự thay đổi về bản chất và quy mô của lực lượng sản xuất hiện đại, làm sâu sắc hơn quá trình toàn cầu hóa, hình thành “nền kinh tế ảo” xuyên biên giới tách rời tương đối với nền kinh tế thực. Sự phát triển đó đặt ra đòi hỏi khách quan về sự thay đổi tư duy phát triển trên bình diện toàn cầu cũng như trong từng quốc gia.

Trên thế giới, sự phát triển các hình thức kinh tế mới gắn liền với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, dẫn tới sự thay đổi về bản chất và quy mô của lực lượng sản xuất hiện đại, làm sâu sắc hơn quá trình toàn cầu hóa, hình thành “nền kinh tế ảo” xuyên biên giới tách rời tương đối với nền kinh tế thực. Sự phát triển đó đặt ra đòi hỏi khách quan về sự thay đổi tư duy phát triển trên bình diện toàn cầu cũng như trong từng quốc gia. Chính vì vậy, nhận thức đúng vị trí, vai trò của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, từ đó, xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ góp phần quan trọng nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt tham quan "Triển lãm quốc tế đổi mới sáng tạo Việt Nam 2021" _Ảnh: vkist.gov.vn

Bối cảnh mới và vấn đề đặt ra đối với phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo

Trong giai đoạn mới, mục tiêu đặt ra đối với đất nước là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Các mục tiêu phát triển đó được đặt ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều cơ hội và thách thức đan xen.

Hội nghị Davos 2019 với chủ đề “Toàn cầu hóa 4.0: Định hình kiến trúc toàn cầu trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” cho thấy, thế giới đang bước vào thời kỳ thay đổi toàn cầu sâu sắc dưới tác động của nhiều yếu tố, cùng với sự thay đổi địa - kinh tế, địa - chính trị, mà nhiều chuyên gia và chính trị gia cho là thế giới đang bước vào giai đoạn đầu của “Toàn cầu hóa 4.0”. Sự chuyển động của thế giới kèm theo một loạt thay đổi cả về chính trị, kinh tế, xã hội diễn ra đồng thời được cho là sẽ định hình lại toàn cầu hóa. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn liền với đổi mới sáng tạo mang lại các công nghệ nền tảng với tốc độ và quy mô chưa từng có trong lịch sử; các thách thức sinh thái, trong đó có biến đổi khí hậu, đe dọa sự phát triển kinh tế - xã hội... Sự phát triển của công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học không chỉ thúc đẩy hiện đại hóa nền kinh tế mà còn tác động sâu sắc đến những thay đổi về xã hội và con người, hình thành các giá trị xã hội - giá trị con người (cả về phương diện tích cực và tiêu cực) mà hiện nay chưa ai có thể hình dung hết được.

Các thay đổi quan trọng đó thúc đẩy phát triển các hình thái mới, đó là quá trình xã hội hóa, quốc tế hóa lực lượng sản xuất, quốc tế hóa quan hệ sản xuất (trong đó có các quan hệ sở hữu, làm thay đổi bản chất và cấu trúc quan hệ sở hữu) không chỉ trong từng nước mà trên bình diện toàn cầu. Đó là cơ sở hình thành những mô hình, những “kiểu quan hệ sản xuất mới” không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ “biên giới cứng” của một quốc gia mà trở thành các kiểu quan hệ sản xuất quốc tế vượt qua khỏi biên giới lãnh thổ của từng nước. Ngay các nước phát triển nhất (với thể chế xác định riêng) cũng không thể một mình “điều tiết” có hiệu quả các quan hệ sản xuất quốc tế này, đòi hỏi phải hình thành các chế định, các thể chế quốc tế để điều tiết trên cơ sở hình thành và bảo vệ các giá trị chung giữa các nước, trong khi vẫn tôn trọng các giá trị riêng của từng nước ở mức độ chấp nhận được. Sự tác động của đại dịch COVID-19 làm bộc lộ nhiều bất cập về cấu trúc, hình thái phát triển kinh tế - xã hội và sự phát triển thiếu bền vững trên bình diện toàn cầu cũng như trong từng nước. Sự đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu dưới tác động của đại dịch COVID-19 và ứng phó của từng nước vừa qua đã cho thấy rõ điều này. Việc thích ứng có hiệu quả với các quá trình này, đòi hỏi phải đổi mới tư duy, đây là thách thức lớn đối với các nước còn ở trình độ phát triển thấp khi tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trong đó có Việt Nam.

Trong nước, qua hơn 35 năm đổi mới, mặc dù đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nhưng chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức cần phải được nhận thức rõ, đó là, so với nhiều nước trong khu vực và thế giới, nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế nước ta vẫn còn hiện hữu. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ yếu là việc ứng dụng khoa học - công nghệ trong phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao. Cần nhận thức rõ thực trạng này, để trên cơ sở đó đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, hoàn thiện thể chế để tạo động lực phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Trình độ ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế

Việc chuyển mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta còn chậm. Các chương trình, đề án chuyển đổi mô hình tăng trưởng chưa được cụ thể hóa đầy đủ, đồng bộ, thiếu các giải pháp và nguồn lực kèm theo để triển khai thực hiện. Việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai của các ngành, các cấp còn thiếu kiên quyết. Mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn phát triển theo chiều rộng, thiếu bền vững. Tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tăng năng suất lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại. Chất lượng tăng trưởng còn thấp, thể hiện ở năng suất lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) chưa cao, công nghiệp vẫn chủ yếu là gia công lắp ráp, giá trị gia tăng thấp, công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển, tỷ lệ nội địa hóa thấp, hệ số sử dụng vốn (ICOR) còn cao, thất thoát, lãng phí còn lớn... Sự tăng trưởng vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vào thị trường nước ngoài và các chuỗi cung ứng toàn cầu; kinh tế tư nhân trong nước chậm phát triển.

Chưa hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách để tạo được sự đột phá trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực xã hội, nhất là cho đầu tư phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để tạo động lực cho phát triển; việc sử dụng các nguồn lực vẫn còn phân tán và kém hiệu quả; vẫn còn cơ chế “xin - cho”, bị chi phối bởi lợi ích nhóm. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc. Bội chi ngân sách còn lớn, nợ công tăng nhanh, nợ chính phủ đã vượt trần cho phép, gây áp lực trả nợ lớn, nguồn lực đầu tư cho phát triển ngày càng hạn hẹp dẫn đến thiếu nguồn lực cho đầu tư phát triển.

Việc thực hiện ba đột phá chiến lược chưa đạt mục tiêu đề ra. Chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được cải thiện, chưa hướng tới thúc đẩy mạnh phát triển theo chiều sâu; môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều trở ngại. Việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ theo hướng hiện đại còn nhiều khó khăn, chậm, chất lượng thấp.

Ðổi mới, sắp xếp lại và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chưa đạt yêu cầu. Thoái vốn và cổ phần hóa DNNN còn nhiều vướng mắc cả về thể chế và thực tiễn; tỷ lệ vốn được cổ phần hóa thấp; tình trạng nợ đọng, thua lỗ còn lớn. Quản trị DNNN chậm được đổi mới.

Nền công nghiệp nội địa phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước còn chậm. Nền công nghiệp chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững; nội lực của nền công nghiệp còn yếu, trình độ công nghệ còn lạc hậu; chất lượng sản phẩm, năng suất lao động ngành công nghiệp còn thấp. Hiệu quả hoạt động của đa số doanh nghiệp công nghiệp chưa cao; năng lực cạnh tranh, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu còn hạn chế; công nghiệp nội địa chưa có ngành mũi nhọn đóng vai trò dẫn dắt; nhiều ngành công nghiệp ưu tiên phát triển không đạt mục tiêu đề ra. Đa số doanh nghiệp tư nhân trong nước có quy mô nhỏ và vừa, tiềm lực tài chính, nhân lực và công nghệ hạn chế. Nhiều doanh nghiệp FDI có công nghệ trung bình, chủ yếu gia công, lắp ráp, tỷ lệ nội địa hóa ở mức thấp. Tình trạng ô nhiễm môi trường từ phát triển công nghiệp còn nghiêm trọng...

Nhìn chung, trình độ ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hội nhập quốc tế. Cần nhận thức rõ, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho sự tăng trưởng, thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững phải trở thành nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển mới. Trong bối cảnh hiện nay, mô hình phát triển hướng tới phải dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ hiện đại. Việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển thống nhất hữu cơ giữa các thể chế thành phần về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, hội nhập quốc tế.

Nhận thức để xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo

Thứ nhất, nhận thức tầm quan trọng của yêu cầu phát triển nhanh, bền vững dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Ở Việt Nam, tầm quan trọng của vấn đề phát triển nhanh, bền vững được Đảng và Nhà nước quan tâm khá sớm, nhất là từ Đại hội VIII đến nay. Quan điểm của Đảng về phát triển bền vững đã và đang được thể chế hóa và cụ thể hóa thông qua việc ban hành các luật, chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển. Tiếp cận với quan niệm phát triển bền vững của Liên hợp quốc, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg, ngày 10-5-2017, về “Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 về sự phát triển bền vững”, với mục tiêu tổng quát là: “Duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”. Quan niệm chung nhất về phát triển nhanh, bền vững được hiểu là phải bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh cả về quy mô và chất lượng, đồng thời phải bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái, đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai; không dẫn đến những xung đột, khủng hoảng cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Quan điểm phát triển nhanh, bền vững được Đảng và Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và trở thành một chủ trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất nước. Phát triển nhanh, bền vững vừa bao hàm cả chiều rộng và chiều sâu, vừa thể hiện tốc độ và chất lượng của sự tăng trưởng.

Vấn đề phát triển nhanh, bền vững có mối quan hệ biện chứng động, trong đó có những quan hệ thuận chiều và quan hệ ngược chiều. Bản thân phát triển nhanh sẽ tạo được nguồn lực và cơ sở để bảo đảm phát triển bền vững ở trình độ cao hơn. Trên thực tế, để phát triển nhanh cần phải tạo được những mũi nhọn đột phá, chủ lực; đòi hỏi việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tập trung cao hơn cho các mũi nhọn đột phá, chủ lực, không thể dàn đều. Vì thế, mối quan hệ phát triển nhanh và bền vững cần được xem xét trong tổng thể chiến lược phát triển đất nước trong từng giai đoạn, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển cụ thể, phải dựa trên nền tảng các phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thứ hai, nhận thức rõ sự tác động của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển nhanh, bền vững.

Việc khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa làm tốt vai trò “thực sự là quốc sách hàng đầu”; là động lực then chốt và quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Có thể nêu bốn nguyên nhân chủ yếu sau: 1- Các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, các tổ chức khoa học - công nghệ chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò, vị trí của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển nhanh, bền vững đất nước; 2- Trong một thời gian dài, nền kinh tế nước ta phát triển theo mô hình tăng trưởng chủ yếu trên nền tảng của thâm dụng lao động trình độ thấp, giá rẻ, thâm dụng đất đai và các tài nguyên khác, trình độ công nghệ thấp, chủ yếu là sản xuất sản phẩm thô, gia công lắp ráp. Chính mô hình tăng trưởng này đã làm hạn chế việc thúc đẩy phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; 3- Thể chế phát triển ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo còn hạn chế, chưa đồng bộ, do đó, thiếu cơ chế phù hợp với tính đặc thù của hoạt động trí tuệ nhằm tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; 4- Nhìn tổng thể, tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước (tiềm lực đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, tiềm lực sở hữu trí tuệ, tiềm lực tài chính, tiềm lực cơ sở vật chất) dù có tăng lên nhưng còn khiêm tốn. Đây cũng chính là những vấn đề trọng yếu đặt ra cần phải nhận thức sâu sắc và khắc phục để phát huy vai trò của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giai đoạn mới.

Thứ ba, nhận thức rõ những đặc trưng cơ bản của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Hiện nay, vẫn còn những quan niệm rộng, hẹp khác nhau về nội dung của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tuy nhiên, đã có sự thống nhất khá cao về các trụ cột chủ yếu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đó là kỹ thuật số, công nghệ sinh học và vật lý. Trong đó, bao quát những lĩnh vực trọng yếu về kỹ thuật số là trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) và điện toán đám mây; về lĩnh vực công nghệ sinh học được phát triển đa dạng và lên một tầm cao mới, nhất là khi kết hợp với trí tuệ nhân tạo, để tạo ra những bước nhảy vọt trong nông nghiệp, thủy sản, y - dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu; về lĩnh vực vật lý được tập trung vào nghiên cứu và chế tạo rô-bốt thế hệ mới, siêu tự động hóa, máy in 3D, phương tiện tự hành (máy bay không người lái - UAV, tàu ngầm và thiết bị dưới nước không người lái, xe tự hành...) các vật liệu mới và công nghệ na-nô... được sử dụng ở hầu như tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự kết hợp ba trụ cột chủ yếu đó cùng với sự phát triển đột phá của khoa học - công nghệ mới tạo nên nền tảng cho sự phát triển về chất của tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, gồm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, y tế, truyền thông, môi trường...

Sự phát triển các trụ cột công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang liên kết tạo thành những nền tảng công nghệ (công nghệ nền tảng - Platform), nhất là nền tảng số, làm cơ sở cho sự phát triển của các ngành khoa học - công nghệ. Công nghệ nền tảng được coi là giải pháp tương lai của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang ngày càng được áp dụng rộng rãi trên mọi lĩnh vực, tạo nên những thay đổi đột phá, giúp tối ưu hiệu suất lao động và mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

Với nội dung như trên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những đặc trưng chủ yếu sau:

Một là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên nền tảng của khoa học - công nghệ trình độ cao ở hầu hết các lĩnh vực. Khoa học và công nghệ gắn hữu cơ với nhau đang trực tiếp trở thành cơ sở nền tảng cho mọi hoạt động của xã hội.

Hai là, nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu công nghệ, nghiên cứu ứng dụng và ứng dụng vào thực tiễn gắn hữu cơ với nhau hơn. Do đó, tốc độ ứng dụng và lan truyền các sản phẩm công nghệ cao trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhanh hơn nhiều so với trước đây và tạo nên những bước phát triển mang tính đột phá “không có tiền lệ lịch sử” làm thay đổi hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ hiện nay ở mọi quốc gia trên thế giới. Chiều rộng và chiều sâu của những thay đổi này đòi hỏi phải đổi mới của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị trong nhiều lĩnh vực.

Ba là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là công nghệ số, phát triển với tốc độ nhanh, đang tạo ra sự kết nối ngày càng chặt chẽ và có sự tương tác hữu cơ giữa không gian thực (physical systems - bao gồm con người, các vật thể và hệ thống xã hội thực đang vận hành) với không gian ảo - không gian số (cyber space - bao gồm các phiên bản số của con người và toàn bộ các thực thể và quá trình được số hóa), tạo lập nên nền tảng thế giới mới cho sự phát triển của xã hội loài người, trong đó các hệ thống ảo được kết nối với hệ thống thực một cách linh hoạt, hiệu quả.

Bốn là, sự tích hợp ngày càng mạnh mẽ các hoạt động của con người trên không gian số ở tất cả các khâu, nhất là các khâu trước, trong và sau sản xuất, trong hệ thống cung ứng các dịch vụ, đồng thời liên kết với nhau theo các chuỗi, mạng, vì vậy ranh giới “cứng” giữa các ngành, nghề như hiện nay đang “mờ” dần. Sự phát triển mang tính tổng hợp và hệ thống ở cấp độ cao hơn.

Năm là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động lớn đối với sự phát triển trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, lối sống, môi trường... ở tất cả các cấp độ từ toàn cầu, khu vực, trong từng quốc gia, đơn vị, cộng đồng, gia đình và mỗi con người. Nó đang phá vỡ hầu hết nền tảng sản xuất truyền thống ở mọi quốc gia, tạo nên những giá trị, phương thức sống, hoạt động, hình thức, mô hình tương tác mới trong xã hội.

Sáu là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi cơ bản cơ cấu của nền kinh tế, xuất hiện những ngành, nghề mới; những ngành, nghề truyền thống có thể bị thu hẹp lại, hoặc mất đi, hoặc được hiện đại hóa. Do đó, cơ cấu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ sẽ có sự thay đổi lớn, tập trung hơn cho những lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, tạo ra năng suất, chất lượng cao. Đồng thời, đầu tư cho các lĩnh vực phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống sẽ được quan tâm đầy đủ hơn.

Bảy là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời đẩy mạnh quá trình siêu tự động hóa, “rô-bốt hóa”, nhiều ngành, nghề với lao động truyền thống đang giảm đi, cơ cấu ngành, nghề và cơ cấu trình độ lao động có sự thay đổi về chất, chuyển sang lao động trí óc trên quy mô toàn cầu. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với việc đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu mới.

Tám là, sự phát triển của khoa học - công nghệ mang đến cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng đặt ra thách thức không nhỏ, nhất là với những nước còn đang phát triển. Cuộc cách mạng này có thể tạo nên cuộc cạnh tranh chiến lược về công nghệ giữa các nước lớn, dẫn đến tình trạng bất bình đẳng về công nghệ và nhân lực giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Đặc biệt là nguy cơ phá vỡ thị trường lao động khi quá trình đào tạo và sử dụng nhân lực không thích ứng kịp với sự phát triển của công nghệ và thay đổi sản xuất, kinh doanh. Quá trình tự động hóa diễn ra rất nhanh chóng nếu người lao động không thích ứng, bắp kịp với sự thay đổi này sẽ dẫn tới hiện tượng bị dư thừa hay thất nghiệp. Đặc biệt, xu thế này không những đe dọa việc làm của người lao động có trình độ thấp mà ngay cả lao động có trình độ cao cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị những kỹ năng mới./.

PGS, TS. TRẦN QUỐC TOẢN

Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương