28/03/2024 lúc 20:49 (GMT+7)
Breaking News

Thành tựu và kinh nghiệm

VNHN - Trong thời kỳ đổi mới, nhờ có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước; hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng.

VNHN - Trong thời kỳ đổi mới, nhờ có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước; hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng.

 

ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TỪNG BƯỚC ĐƯỢC HOÀN THIỆN

Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đ­ược bổ sung, hoàn thiện. Đại hội VI của Đảng đưa ra quan điểm muốn phát triển kinh tế phải tham gia vào phân công lao động quốc tế. Đến Đại hội VII, Đảng khẳng định: “mở rộng, đa dạng hoá và đa ph­ương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi”(1). Trung ­ương Đảng khóa VII đã cụ thể hóa quan điểm mở rộng quan hệ và tham gia các tổ chức, định chế tài chính, tiền tệ, kinh tế, thư­ơng mại khu vực và quốc tế. Tiếp đó, Đại hội VIII xác định đường lối “xây dựng nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội IX đánh dấu mốc phát triển mới về hội nhập kinh tế quốc tế với chủ tr­ương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” được cụ thể hóa bởi Nghị quyết 07-NQ/TW (27-11-2001) của Bộ Chính trị.

Trong tình hình mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm việc bổ sung, làm rõ thêm quan điểm, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X đã nêu 5 bài học lớn, trong đó bài học thứ 3 là bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Hội nhập kinh tế quốc tế đư­ợc xác định là yêu cầu khách quan, do đó phải chủ động, có lộ trình với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ, như­ng cũng không nóng vội, giản đơn...

Đến Đại hội XI, Đảng chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phư­ơng, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Nhìn chung, hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh nước ta hiện nay phải dựa trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường.

Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”(2). Để đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng các quan điểm về hội nhập quốc tế được nêu trong Văn kiện Đại hội, đối ngoại tập trung làm tốt các công việc:

Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại được Đại hội XII của Đảng thông qua, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương.

Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, theo đó cần tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực; biến quá trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, người dân.

Thứ tư, triển khai các định hướng lớn về hội nhập được nêu trong Văn kiện Đại hội, tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập; phấn đấu đến 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở mức độ cao trong ASEAN(3).

Ảnh minh họa

NHỮNG THÀNH TỰU CƠ BẢN

Thứ nhất, phá được thế bao vây cấm vận; tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển đất nước. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước lớn và hầu hết các nước trên thế giới; gia nhập nhiều tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng; trở thành thành viên có vai trò quan trọng trong ASEAN; đồng thời lần đầu tiên đảm nhiệm thành công vai trò ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009). Do vậy, vị trí của nước ta trong chính sách khu vực của các đối tác cũng ngày càng được coi trọng hơn.

Thứ hai, củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng giềng; kiên quyết và kiên trì đấu tranh giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được củng cố, mở rộng, đi vào chiều sâu từ đó đạt được những bước phát triển tốt đẹp, đặc biệt là trong hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư. Quan hệ Việt Nam - Campuchia tiếp tục được củng cố, phát triển về mọi mặt. Hai bên đã nhất trí phương châm phát triển quan hệ đối ngoại trong thời kỳ mới theo hướng “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Với Trung Quốc, quan hệ hai nước có nhiều bước phát triển kể từ khi bình thường hóa; hợp tác kinh tế - thương mại phát triển nhanh chóng; hai bên đã phân giới cắm mốc xong trên thực địa toàn tuyến biên giới; phê chuẩn Hiệp định phân định và Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ; thoả thuận thiết lập quan hệ “Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” theo tinh thần 16 chữ và bốn tốt. Trong bối cảnh tình hình trên Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, có lúc căng thẳng, chúng ta đã xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, kiên trì và kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình, đồng thời giương cao ngọn cờ hoà bình và công lý, chủ trương thông qua các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển; kiên trì tôn trọng thỏa thuận giữa ASEAN và Trung Quốc về cách ứng xử trên Biển Đông (DOC), nỗ lực cùng các nước liên quan xây dựng một Bộ quy tắc ứng xử (COC) thực sự có hiệu lực trong việc quản lý tranh chấp và ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông.

Thứ ba, bình thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước, nhất là các nước lớn, tiếp tục đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu. Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng trong quan hệ với Hoa Kỳ kể từ sau bình thường hóa quan hệ (1995); cụ thể, quan hệ kinh tế phát triển nhanh; quan hệ an ninh, quân sự từng bước được thiết lập; hợp tác về khoa học kỹ thuật, giáo dục, y tế, lao động, văn hóa v.v.. không ngừng được mở rộng. Đồng thời, Việt Nam cũng ưu tiên phát triển quan hệ với các nước, các trung tâm chính trị - kinh tế lớn của thế giới theo các khuôn khổ phù hợp.

Thứ tư, từng bước chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực.

Đến năm 2015, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 185/193 nước thành viên Liên Hợp quốc, thiết lập quan hệ “đối tác chiến lược” với 13 nước, quan hệ “đối tác chiến lược” trên một số lĩnh vực với 2 nước, quan hệ “đối tác toàn diện” với 11 nước. Trong các đối tác trên có 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc.

Việt Nam đã gia nhập hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng, mở rộng hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực khác; từng bước khẳng định được hình ảnh và vị thế của một quốc gia tích cực và có trách nhiệm; tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng quốc tế về văn hoá, con người và đất nước Việt Nam; đóng góp tích cực cho duy trì, bảo vệ môi trường hòa bình chung thông qua các cơ chế, diễn đàn an ninh quốc tế và khu vực, thông qua xây dựng các chuẩn mực, quy tắc ứng xử chung quốc tế và khu vực; được bầu vào Hội đồng Nhân quyền của Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu cao; là thành viên Ủy ban Di sản thế giới - UNESCO.

Sau 30 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế và 10 năm gia nhập WTO (2006), Việt Nam đã tận dụng được cơ hội và thu được nhiều thành tựu quan trọng.

Thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, số lượng đối tác thương mại gia tăng, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch mạnh theo hướng giảm tỷ lệ nông sản thô, nguyên nhiên liệu và tăng tỷ lệ các mặt hàng công nghiệp và chế biến; phát triển được nhiều ngành, sản phẩm có năng lực cạnh tranh, phục vụ tốt yêu cầu phát triển kinh tế và cải thiện vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh tế của khu vực và thế giới.

Tạo được những chuyển biến lớn về tư duy của cả chính quyền, doanh nghiệp và xã hội, tạo động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống luật pháp; điều chỉnh chính sách theo các chuẩn mực quốc tế, từ đó nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong 5 năm, Việt Nam đã sửa đổi và xây dựng 86 luật để tạo điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với sự ra đời Luật đầu tư nước ngoài, và sự điều chỉnh của các điều luật, cơ chế, chính sách khác, Việt Nam đã và đang tạo lập môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Đại hội XII của Đảng đánh giá: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục hồi, vốn đăng ký giai đoạn 2011-2015 đạt 99 tỷ USD, thực hiện đạt 60,5 tỷ USD. Vốn ODA ký kết khoảng 27,8 tỷ USD, giải ngân khoảng 22,3 tỷ USD, đóng góp quan trọng vào kết cấu hạ tầng”(4).

Tiếp thu công nghệ mới và đào tạo nguồn nhân lực. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội và động lực cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được áp dụng, tạo ra bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần đào tạo cán bộ trên nhiều lĩnh vực. Hàng vạn lao động trực tiếp, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,… được đào tạo và trưởng thành có thể tiếp cận và chuyển giao thành công các công nghệ hiện đại của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

Từng bước đưa doanh nghiệp và nền kinh tế bước vào môi trường cạnh tranh. Hội nhập kinh tế quốc tế buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh ở cả thị trường trong nước và nước ngoài, do đó các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, xây dựng thương hiệu để không ngừng phát triển. Hiện nay nhiều mặt hàng của nước ta được đánh giá có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Một số doanh nghiệp đã đầu tư hoạt động ở nước ngoài như: Viettel, Petro Vietnam, Hoàng Anh Gia Lai, cà phê Trung Nguyên, Vinamilk,… Thị trường chủ yếu là Lào, Nga, Singapore, Campuchia, Anh, Ấn Độ, Đài Loan,…

Duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và tương đối ổn định, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân. Năm 1990, thu nhập bình quân đầu người nước ta ở mức dưới 100 USD, năm 2005 đạt 640 USD, năm 2010 đạt 1168 USD. Tuy nhiên đến Đại hội XII của Đảng, “Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt trên 5,9%/năm. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt 193,4 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD(5).

Góp phần củng cố hệ thống chính trị - an ninh - quốc phòng Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp củng cố hệ thống chính trị, nâng cao uy tín, vai trò của Đảng và Nhà nước, làm cho vị thế và vai trò quốc tế của Việt Nam được tăng cường. Mặt khác hội nhập kinh tế quốc tế tạo nền tảng để bảo đảm an ninh, quốc phòng, tạo điều kiện tốt hơn để thực hiện các chương trình xã hội như xóa đói giảm nghèo, phát triển vùng sâu vùng xa.

MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Chưa xác lập được một cách thật sự bền vững môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước. Quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng chưa ổn định, còn tồn tại nhiều trở ngại trong phát triển quan hệ giữa nước ta với các nước đối tác lớn.

Hiệu quả hoạt động đối ngoại trong một số trường hợp chưa được như mong muốn; việc triển khai thực hiện các kết quả, các thỏa thuận chưa kịp thời; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn chưa nhịp nhàng và đồng bộ.

Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế chưa được các cấp, các ngành quán triệt đầy đủ, chậm cụ thể hóa và thế chế hóa; các đơn vị chưa nhận thức rõ, chủ động tận dụng các cơ hội, cũng như chưa thấy được thách thức mới nảy sinh để chủ động ứng phó.

Hội nhập kinh tế quốc tế chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu nâng cao hiệu quả, phát triển bền vững, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; chưa được tiến hành đồng bộ với quá trình gia tăng liên kết giữa các vùng, miền trong cả nước. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, giám sát và phối hợp quá trình hội nhập, từ Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập.

Hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và một số lĩnh vực khác chưa đi vào chiều sâu, chưa gắn kết và tạo tác động tích cực đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; trong nhiều trường hợp còn bị động; khuynh hướng tiếp nhận trợ giúp quốc tế còn phổ biến.

MỘT SỐ KINH NGHIỆM

Từ thực tiễn triển khai đường lối và chính sách đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng thời kỳ đổi mới, có thể đúc rút một số kinh nghiệm:

Một là, cần nhìn nhận thế giới một cách khách quan, biện chứng. Cần có nhận thức khoa học và tư duy thay đổi linh hoạt về thế giới để có những chiến lược, sách lược phù hợp nhất với lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã vận dụng rất thành công bài học này, và trong bối cảnh môi trường quốc tế diễn biến ngày càng phức tạp hiện nay, đây là bài học cần hết sức lưu ý, chú trọng.

Hai là, gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, để lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn là đặc trưng của đối ngoại nước ta nói chung và đối ngoại thời kỳ đổi mới nói riêng.

Ba là, huy động và củng cố sức mạnh vật chất gắn với huy động và phát huy sức mạnh tinh thần; kết hợp sức mạnh tự thân với sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế; đặc biệt chú trọng đến sự đồng thuận, thống nhất trong cả quá trình, từ điều hành cho tới triển khai các hoạt động đối ngoại

Bốn là, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Kiên trì nguyên tắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, và xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đồng thời, linh hoạt, mềm dẻo nhưng kiên quyết trong việc bảo đảm những nguyên tắc bất di bất dịch ấy.

Năm là, nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước. Việt Nam đã từng bước phá thế bao vây, cấm vận, bình thường hóa quan hệ với các nước; tiến tới đa dạng hóa, đa phương hóa nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại; đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khổ hợp tác bền vững. Trong hội nhập, khởi đầu bằng việc gia nhập ASEAN, Việt Nam đã gia nhập các tổ chức quốc tế lớn hơn như ASEM (1996), APEC (1998), và WTO (2006)... Từ hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã từng bước mở rộng hội nhập trong các lĩnh vực khác, từ chính trị, quốc phòng, an ninh đến các lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo.

________________

PGS.TS VŨ QUANG VINH - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

THS NGUYỄN THỊ NGỌC TUYẾT PHƯƠNG - Trường Chính trị tỉnh Hậu Giang

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.119.

(2), (4), (5), ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 153-154, 232, 225,313.

(3) Xem: TTXVN ngày 23-1-2016