19/04/2024 lúc 22:43 (GMT+7)
Breaking News

Tấm gương sáng người cộng sản kiên trung, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng

VNHN - Đồng chí Phan Đăng Lưu sinh ngày 5-5-1902 ở thôn Đông, xã Hoa Thành (trước đây là xã Tràng Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nho học, có truyền thống yêu nước. Cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt của đồng chí là tấm gương sáng ngời về lòng kiên trung, bất khuất của người chiến sĩ cộng sản; về sự hy sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam.

VNHN - Đồng chí Phan Đăng Lưu sinh ngày 5-5-1902 ở thôn Đông, xã Hoa Thành (trước đây là xã Tràng Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nho học, có truyền thống yêu nước. Cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt của đồng chí là tấm gương sáng ngời về lòng kiên trung, bất khuất của người chiến sĩ cộng sản; về sự hy sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam.

 

Người cộng sản kiên trung, bất khuất

Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, lại được giáo dục về truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương nên từ rất sớm, Phan Đăng Lưu đã ấp ủ hoài bão cứu dân, cứu nước. Tốt nghiệp Trường Canh nông thực hành ở Tuyên Quang với tấm bằng hạng ưu, Phan Đăng Lưu được làm nhân viên tập sự tại Sở Canh nông Bắc Kỳ. Ngày 10-10-1924, đồng chí đến nhận việc tại Trại nuôi tằm Thanh Ba (tỉnh Phú Thọ) và một năm sau được chuyển về Sở Canh nông Nghệ An. Là một thanh niên sớm có tư tưởng chống thực dân Pháp xâm lược, Phan Đăng Lưu nhanh chóng bắt liên lạc với các thành viên trong Hội Phục Việt và tích cực tham gia các hoạt động yêu nước ởVinh (Nghệ An). Đồng chí tìm đọc và phổ biến sách báo tiến bộ, bàn luận thời cuộc với những người yêu nước và ký tên vào bản yêu sách đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.

Tam guong sang nguoi cong san kien trung, cong hien tron doi cho su nghiep cach mang - Anh 1

Đồng chí Phan Đăng Lưu (1902-1941).

Nắm chắc những hoạt động yêu nước của Phan Đăng Lưu, chính quyền thực dân Pháp tìm mọi cách luân chuyển đồng chí làm nhiều công việc khác nhau, và cuối cùng Khâm sứ Trung Kỳ đã ra quyết định thải hồi vì những hoạt động yêu nước của Phan Đăng Lưu. Thế nhưng, kẻ thù không thể ngờ chính những thủ đoạn thâm độc đó lại tạo cơ hội để Phan Đăng Lưu trở về quê hương hoạt động cách mạng.

Về quê, Phan Đăng Lưu tiếp tục hoạt động, xây dựng nhiều tổ chức mới của Việt Nam cách mạng Đảng và Tân Việt. Tháng 2-1928, Phan Đăng Lưu được kết nạp vào Hội Phục Việt (lúc này hội đổi tên là Hưng Nam, sau đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng). Từ một công chức, đồng chí đã trở thành nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp trong tổ chức Tân Việt, được bầu làm Ủy viên Thường vụ của tổ chức này (tháng 7-1928). Cuối tháng 9-1928, Phan Đăng Lưu được Tổng bộ Tân Việt cử sang Quảng Châu, Trung Quốc tìm cách hợp nhất Tân Việt với Thanh Niên, nhưng chuyến đi không thành công. Trước tình hình trong nước hình thành 2 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng cùng hoạt động, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, gây hậu quả xấu cho cách mạng, tháng 9-1929, Tổng bộ Tân Việt lại cử Phan Đăng Lưu sang Quảng Châu lần thứ hai. Khi đang ở Hải Phòng để chuẩn bị sang Trung Quốc, do có kẻ phản bội chỉ điểm, Phan Đăng Lưu bị mật thám bắt đưa về giam ở nhà lao Vinh và bị Tòa Nam triều Nghệ An kết án 7 năm tù giam, đày lên nhà tù Buôn Ma Thuột - một trong những nhà tù, nhà đày khắc nghiệt nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương.

Cùng với nhiều tù chính trị, đồng chí Phan Đăng Lưu bị giam cầm, tra tấn dã man, nhưng vẫn kiên trì, bền bỉ đấu tranh. Cũng chính tại đây, đồng chí được chi bộ Đảng kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và tham gia Ban lãnh đạo nhà tù. Đồng chí triệt để lợi dụng mọi cơ hội để tuyên truyền trong bạn tù chính trị; làm tờ báo bí mật "Doãn Đê tuần báo" trong nhà tù (tuần báo của người Kinh và người Ê Đê), đã tuyên truyền, giác ngộ sự đoàn kết giữa người Kinh, binh lính và đồng bào Ê Đê. Đồng chí tham gia lãnh đạo các cuộc đấu tranh trong nhà tù đòi quyền lợi cho tù chính trị; đồng thời viết nhiều bài gửi ra bên ngoài tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở nhà tù Buôn Ma Thuột.

Giữa năm 1936, phong trào đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ và thả tù chính trị dấy lên ở Pháp và Đông Dương. Thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải thả một số tù chính trị, trong đó có Phan Đăng Lưu. Ra tù, đồng chí về hoạt động tại Huế trong sự kiểm soát của mật thám Pháp. Cuối tháng 11-1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai và giải về Khám lớn Sài Gòn, dùng đủ mọi thủ đoạn để mua chuộc và tra tấn, nhưng đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản… Trong lao tù, đồng chí Phan Đăng Lưu vẫn tìm cách truyền ngọn lửa cách mạng của người cộng sản tới anh em cùng cảnh ngộ. Bất chấp chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc và sự kiểm soát gắt gao của bọn lính gác, Phan Đăng Lưu đã cùng anh em trong tù tổ chức kiểm điểm tập thể, rút ra những bài học kinh nghiệm từ cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ.

Sáng suốt chỉ đạo thực tiễn cách mạng và tổ chức hội nghị tái lập BCH Trung ương Đảng

Tháng 3-1938, Xứ ủy Trung Kỳ được thành lập lại, đồng chí Phan Đăng Lưu được bầu vào Xứ ủy Trung Kỳ và Ủy viên Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng, phụ trách hoạt động công khai ở Huế, đóng góp tích cực vào phong trào báo chí và cuộc vận động Đông Dương đại hội. Đồng chí đã vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng về không tẩy chay tuyển cử mà tham gia tuyển cử. Trên cơ sở đó, đồng chí Phan Đăng Lưu đã xây dựng bản chương trình hành động cụ thể, thiết thực; thảo luận thống nhất việc chọn người ra tranh cử có cả đảng viên và cảm tình của Đảng; làm thất bại âm mưu, hành động của chính quyền thực dân và tay sai. Cuộc đấu tranh vào Viện Dân biểu do Phan Đăng Lưu làm Tổng tư lệnh đã thắng lợi rực rỡ (tất cả 18 ứng cử viên do Đảng đưa ra tranh cử đều trúng cử ngay từ vòng đầu và đều nắm các chức vụ chủ chốt trong viện). Đánh giá về thắng lợi này, Đảng ta ghi rõ: “…18 căng-đi-đa ở Trung Kỳ xu hướng về Mặt trận bình dân được đắc cử là những thắng lợi rất vẻ vang của Đảng ta”.

Đồng chí Phan Đăng Lưu (hàng sau, thứ hai, từ trái sang)trong phong trào vận động dân chủ (1936-1939) tại Huế. Ảnh tư liệu

Cuối năm 1939, Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đồng chí Phan Đăng Lưu được Trung ương triệu tập vào Nam Kỳ hoạt động và đã góp phần tích cực vào việc vạch đường lối, sách lược, chuyển hướng cách mạng của Đảng. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu (từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939), đồng chí được Trung ương phân công phụ trách phong trào các tỉnh Nam Kỳ. Cùng Xứ ủy Nam Kỳ, đồng chí đã góp phần quan trọng và tích cực đưa phong trào cách mạng Nam Kỳ phát triển lên một bước mới.

Năm 1940 là thời điểm hết sức khó khăn đối với cách mạng nước ta, bởi lẽ gần như toàn bộ các đồng chí BCH Trung ương Đảng bị bắt và bị giết hại, chỉ còn một mình đồng chí Phan Đăng Lưu hoạt động trong nước. Nhiều chỉ thị của đồng chí, nhân danh BCH Trung ương, được thi hành trong Đảng trên toàn quốc, nhằm vận dụng thời cơ, siết chặt kỷ luật, củng cố tổ chức đi vào hoạt động bí mật và vận dụng sáng tạo các phương pháp, hình thức đấu tranh cho phù hợp với giai đoạn chuyển hướng chỉ đạo cách mạng trên tinh thần đặt yêu cầu “dân tộc giải phóng” lên hàng đầu, đặc biệt là chuẩn bị xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu của Đảng…

Tháng 7-1940, với tư cách là đại diện của Trung ương ở Nam Kỳ, đồng chí Phan Đăng Lưu dự Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ bàn về kế hoạch khởi nghĩa của xứ ủy. Với tầm nhìn toàn cuộc về thời cơ khởi nghĩa, đồng chí đã chỉ đạo tạm hoãn cuộc khởi nghĩa chờ “xin chỉ thị của Trung ương”. Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ đã nhất trí với ý kiến chỉ đạo của đồng chí Phan Đăng Lưu. Đề xuất này cũng có nghĩa là trước đó đồng chí đã cân nhắc kỹ và tự đặt lên vai mình trọng trách phải tổ chức tái lập BCH Trung ương, không phải ở Nam Kỳ mà phải ở Bắc Kỳ.

Tạm trì hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, đồng chí Phan Đăng Lưu bí mật bắt tay ngay vào chuẩn bị cho Hội nghị tái lập BCH Trung ương Đảng. Sau 3 tháng chuẩn bị, vào giữa tháng 10-1940, đồng chí bí mật rời Nam Kỳ ra gặp Xứ ủy Trung Kỳ và Bắc Kỳ, họp và cùng với Xứ ủy Bắc Kỳ thống nhất tổ chức Hội nghị tái lập BCH Trung ương (được gọi là Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ bảy).

Từ ngày 6 đến 9-11-1940, tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), Hội nghị Trung ương lần thứ bảy của Đảng đã được nhóm họp do đồng chí Phan Đăng Lưu chủ trì. Hội nghị đã cử BCH Trung ương lâm thời. Đồng chí Trường Chinh được cử làm Quyền Tổng Bí thư của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương tiếp tục thực hiện đường lối do Hội nghị Trung ương lần thứ sáu của Đảng đề ra, nhằm tích cực chuẩn bị mọi mặt, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành lại non sông đất nước khi thời cơ xuất hiện do diễn biến của chiến tranh thế giới và tình hình trong nước tạo ra; trong đó có quyết định hoãn cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ và giao cho Phan Đăng Lưu trở lại Nam Kỳ truyền đạt quyết định đó cho Xứ ủy Trung Kỳ và Nam Kỳ.

Thành công của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ bảy có sự đóng góp quyết định của đồng chí Phan Đăng Lưu, với ba thành công nổi bật: Một là, chủ trương và góp phần chủ đạo tổ chức thành công Hội nghị Trung ương lần thứ bảy. Hai là, chủ động đề cử thành công đồng chí Trường Chinh vào chức vụ Quyền Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng. Ba là, theo đề nghị của đồng chí Phan Đăng Lưu, cơ quan Trung ương cũng được chuyển từ Nam ra Bắc. Đó là những đóng góp mang tầm chiến lược của đồng chí đối với cách mạng nước nhà. Hội nghị BCH Trung ương lâm thời vừa kết thúc, đồng chí Phan Đăng Lưu lập tức lên đường vào Nam Kỳ để truyền đạt quyết định của BCH Trung ương lâm thời, hoãn cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ.

Về đến Sài Gòn tối 22-11-1940, chưa kịp truyền đạt chỉ thị của Trung ương thì đồng chí Phan Đăng Lưu bị mật thám Pháp bắt. Trong đêm đó, đồng chí Tạ Uyên và nhiều người trong xứ ủy, cấp ủy các cấp cũng bị địch bắt. Cơ quan đầu não lãnh đạo khởi nghĩa không còn. Tuy nhiên, lệnh khởi nghĩa đã truyền đến các địa phương trong toàn xứ, đêm 22-11-1940, nhân dân đã nhất tề đứng lên khởi nghĩa ở 19/22 tỉnh, thành phố từ Biên Hòa đến Cà Mau.

Tòa án binh của chính quyền thực dân Pháp ở Sài Gòn trong các phiên xử ngày 25-3-1941 và ngày 3-4-1941 đã tuyên án tử hình đồng chí Phan Đăng Lưu. Bị dư luận nhân dân phản đối, ngày 28-8-1941, thực dân Pháp bí mật đưa đồng chí Phan Đăng Lưu và một số đồng chí khác ra bắn tại ngã ba Giồng, xã Tân Thới Thượng (Hóc Môn, Gia Định). Khi bị tuyên án tử hình, đồng chí Phan Đăng Lưu vẫn bình tĩnh, kiên định, tỏ rõ thái độ của người cộng sản kiên trung và khẳng khái: "Tôi không sợ chết… Nếu còn sống, nhất định tôi sẽ tìm cách vượt ngục để về hoạt động cách mạng".

Đồng chí Phan Đăng Lưu hy sinh khi mới 39 tuổi, để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với đồng bào, đồng chí và sự khâm phục đối với chính những kẻ đã buộc tội, kết án và giết hại đồng chí.