19/04/2024 lúc 14:54 (GMT+7)
Breaking News

Kiên định con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn

Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam diễn ra dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Trong suốt tiến trình cách mạng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dân ta lựa chọn.

1. Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam diễn ra dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Trong suốt tiến trình cách mạng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dân ta lựa chọn. Qua mỗi bước ngoặt lịch sử, Đảng ta luôn khẳng định “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường chủ nghĩa xã hội trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”[1]được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên, được bổ sung, phát triển qua 12 kỳ Đại hội và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, nhất quán, trong hành trình đi tới mục tiêu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[2]. Tiếp tục kiên định con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, một lần nữa Đại hội XII khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới”[3].

Thực tế của cách mạng Việt Nam trong gần một thế kỷ qua đã và đang khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện từ khi ra đời đến nay đã thể hiện rõ vai trò của mình trong mọi hoàn cảnh, giá trị và sức sống bền vững của nó. Trong 90 năm qua, ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng ta giương cao đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng đắn, là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

Thời gian qua trên một số diễn đàn, nhất là trên các trang mạng xã hội xuất hiện các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuyên truyền xuyên tạc, bôi nhọ tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta về mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.Tuy nhiên, sự thật lịch sử đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu, động cơ và mục đích đen tối đó.Với những thành tựu trong gần 35 năm đổi mới được bắt đầu từ Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nhân dân Việt Nam vững vàng, tự tin hướng tới tương lai. Những thành tựu đạt được trong tiến trình thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được nhận thức rõ hơn, là những minh chứng thuyết phục để bác bỏ quan điểm sai trái. 

2. Tiếng súng xâm lược nước ta của thực dân Pháp nổ ra trong bối cảnh chế độ phong kiến Việt Nam thời Nguyễn đang lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn diện. Với Hiệp ước Patenôtre năm Giáp Thân (ngày 06 tháng 6 năm 1884) đã đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều Nguyễn. Tuy nhiên, mặc cho triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng kẻ xâm lược, nhưng nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước nồng nàn, anh hùng, đã liên tục nổi dậy, kiên cường đấu tranh chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp xâm lược.

Song, thực tế cũng cho thấy, các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp nhằm giành lại độc lập dân tộc trong những năm cuối thế kỷ 19 và 30 năm đầu thế kỷ 20 ở nước ta mặc dù diễn ra rất sôi nổi, liên tục, nhưng đều không thành công. Các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương, đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều thất bại”[4]. Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc về con đường cứu nước. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm ra một con đường cứu nước đúng đắn với một đường lối, phương pháp lãnh đạo mới, đặc biệt  là phải có lực lượng lãnh đạo mới khả dĩ có thể tập hợp được lực lượng của cả dân tộc để tiến hành sự nghiệp cách mạng giải phóng giành thắng lợi.

Trước đòi hỏi mới về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, có một nhât vật lịch sử đã xuất hiện để đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Với khát vọng giải phóng dân tộc, cùng với thiên tài trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén và được kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc, ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước, khác với các bậc tiền bối trước đó, Nguyễn Ái Quốc đã hướng đến các nước tư bản mà đích đến đầu tiên là Pháp, xem đó như là mục tiêu để cứu nước và giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, thực tế lại không cho đáp án như vậy. Vừa đặt chân lên cảng Marseille nước Pháp, Người đã đã nhận thấy ngay điều không ngờ là trên nước Pháp tồn tại hai nước Pháp: Một nước Pháp của giai cấp tư sản và một nước Pháp của nhân dân lao động. Đến Pháp, Nguyễn Ái Quốc muốn xem, muốn tìm câu trả lời cho cái bi kịch và cái nghịch lý: Nơi sinh ra tự do, bình đẳng, bác ái lại đang đi cai trị, bóc lột; nơi sinh ra Tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền lại là nơi đẻ ra ách đô hộ thực dân.

Trong những năm đầy biến động của thế giới, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thắng lợi, tiếp đó là sự ra đời của Quốc tế Cộng sản là những sự kiện trọng đại, ảnh hưởng to lớn đến phong trào cách mạng thế giới và Nguyễn Ái Quốc. Tháng 7-1920, Người đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cuơng về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin, từ đó Người kết luận đây mới là con đường cứu nước và giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, sau mười năm ra đi tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; từ khát vọng độc lập, giải phóng đất nước, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường đúng đắn cho dân tộc Việt Nam đó là con đường cách mạng vô sản.Từ đó, Người nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười, tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng – chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây, phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản ngày càng phát triển ở Việt Nam.Trong bối cảnh đất nước như vậy, con đường cách mạng vô sản đã đến với dân tộc Việt Nam hay nói cách khác là dân tộc Việt Nam đã chọn con đường cách mạng vô sản. Đây chính là tất yếu lịch sử.

3. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định: “Cách mạng Việt Nam là một quá trình cánh mạng không ngừng và phải trải qua hai giai đoạn đó là làm cách mạng tư sản dân quyền tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”[5]. Cương lĩnh chính trị tháng 10/1930 của Đảng nêu rõ: “Tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”[6]. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai nhiệm vụ không thể tách rời, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Để xây dựng được chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc lập dân tộc. Mặt khác, chủ nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ biện chứng qua lại lẫn nhau.

Sự định hướng, chỉ dẫn của con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã mang đến những thành công trong các phong trào yêu nước chống thực dân, đế quốc xâm lược qua các giai đoạn lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam kiên trì thực hiện cho kỳ được mục tiêu cách mạng này. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua ba phong trào cách mạng: phong trào công nông 1930 – 1931với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, phong trào dân chủ 1936 - 1939 và phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945, sự thắng lợi này được đánh dấu bằng thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, qua đó giành lại nền độc lập dân tộc mà thời vua Tự Đức đã đánh mất, xóa bỏ chế độ thuộc địa vẫn còn tàn dư phong kiến. Nhân dân ta đã đánh đuổi được bọn đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á và mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc: kỷ nguyên độc lập tự do; nhân dân lao động nắm chính quyền và làm chủ vận mệnh dân tộc, làm chủ đất nước; kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội.

V.I.Lênin đã từng nói: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”[7]Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, cả dân tộc ta bước vào một cuộc chiến tranh cách mạng để bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Tám.Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dân ta luôn thấu triệt sâu sắc luận điểm đó của V.I.Lênin, coi đó là một nguyên tắc bất biến, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong giai đoạn này,Đảng ta vẫn kiên định về con đường giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện ở đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Xác nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và gắn liền với nó là xác lập liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới (1954 – 1975) với đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Bước vào thời kì này, đường lối chiến lược là đồng thời giương cao hai ngọn cờ kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện một cách độc đáo, chưa có tiền lệ. Đây là một sáng tạo của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh.

Năm 1975, cả nước được độc lập, thống nhất, non sông thu về một mối, toàn thể dân tộc Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, lần đầu tiên sau bao năm gian khổ và hy sinh, mất mát, người dân Việt Nam được tự do thực hiện ước mơ là xây dựng một xã hội có triển vọng với tương lai tươi sáng, một cuộc sống xứng đáng với con người - đầy đủ ý nghĩa, nội hàm của từ Công dân.

Thực tiễn phát triển của cách mạng Việt Nam trong 45 năm (1930 – 1975) đã chứng minh hùng hồn và đầy thuyết phục rằng: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển tất yếu, làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng và đó cũng là sự nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và của nhân dân ta trong việc lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt Nam - con đường hợp xu thế phát triển thời đại.

4. Đảng ta nhận thức rõ, độc lập dân tộc - điều kiện đầu tiên để xây dựng và phát triển đất nước chỉ được bảo đảm vững chắc khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội và giành được độc lập dân tộc mà không đi lên chủ nghĩa xã hội thì chẳng những không bảo vệ được độc lập dân tộc mà còn không thể mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Chính sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường, mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta kiên trì thực hiện đã đáp ứng hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam: Làm thế nào để giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân, giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân?; Lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới?

Sự lựa chọn con đường này phù hợp với nguyện vọng của người dân, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp và sự đoàn kết của của dân tộc Việt Nam góp phần khơi nguồn sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ, phát triển đất nước. Con đường này đã được lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh là sự đúng đắn, hợp qui luật của lịch sử và đánh dấu sự phát triển đi lên của cách mạng Việt Nam và đưa cánh mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

  Thắng lợi mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đất nước được độc lập, hòa bình, thống nhất, cả nước bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong 10 năm đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1986), đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các mặt. Xây dựng vững chắc chính quyền dân chủ nhân dân; chiến đấu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; giữ vững trật tự an ninh chính trị và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Xây dựng được nhiều cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, hoàn thành các công trình trọng điểm về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí…. Thu nhập quốc dân bình quân hàng năm đều có sự gia tăng.Trên các lĩnh vực văn hóa xã hội đạt được những thành tựu to lớn, góp phần làm thay đổi bộ mặt của đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta cũng gặp không ít khó khăn, hạn chế. Sản xuất có tăng nhưng tăng chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra. Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp.tài nguyên thiên nhiên đất nước chưa được khai thác tốt, thậm chí còn lãng phí. Lưu thông, phân phối không thông suốt, giá cả và lạm phát tăng nhanh.Trong một thời gian này chúng ta nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, hệ quả là đất nước rơi vào khủng hoảng về kinh tế - xã hội trầm trọng.

Đứng trước những hạn chế, khó khăn trên cùng với những biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, con đường cách mạng vô sản – sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đứng trước những thách thức to lớn. Xuất phát từ thực tiễn đó, Đảng ta đã nhận thức lại chủ nghĩa xã hội khoa học phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Kiên định với con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí mình đã lựa chọn, Đảng ta, nhân dân ta tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), con đường đổi mới đã được thông qua. Sự đổi mới ở đây không có nghĩa là từ bỏ con đường chủ nghĩa xã hội hoặc thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà đổi mới để nhận thức đúng, đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hộiở Việt Nam. Đổi mới ở đây là đổi mới tư duy, mà trước hết là tư duy kinh tế, không ngừng sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước để xác định con đường cách mạng đi lên xã hội chủ nghĩa xã hội bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Đại hội lần thứ VI (năm 1986) khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”[8] và “Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội khẳng định: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc”[9]. Như vậy, Cách mạng vô sản ở Việt Nam trong bối cảnh Đổi mới về bản chất vẫn kiên định hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ nhân dân; trong đó nhiệm vụ dân chủ nhân dân với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân được đặt lên hàng đầu bên cạnh nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc phòng, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.

Trước những chuyển biến mới của tình hình thế giới và yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 Đảng ta xác định: “Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”[10].

  Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”[11]. Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử…”[12]. Đây là sự phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam, được chứng minh qua học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thực tiễn qua 35 năm đổi mới càng minh chứng rõ hơn đi lên CNXH là sự lựa chọn đúng đắn của chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và nhân dân ta.Thành tựu đạt được qua 35 năm Đổi mới đã làm cho diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.35 năm đổi mới cũng là chặng đường Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Sau 35 năm Đổi mới, các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, văn hóa, đến an ninh - quốc phòng và đối ngoại đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đời sống vất chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện và bảo đảm.Trải qua 35 năm Đổi mới với những thành tựu đạt được đã đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành nước có thu nhập trung bình, ổn định về chính trị và có vai trò cao trên trường quốc tế. Phát biểu tại  phiên bế mạc Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Những thành tựu đã đạt được là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới. Đây cũng là cơ sở đầy sức thuyết phục để chúng ta có thể tự hào khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng để chúng ta tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ và hiệu quả hơn vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Một lần nữa có thể khẳng định những đổi mới trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, đến an ninh - quốc phòng và đối ngoại... là nhờ có nhận thức đúng đắn, đổi mới tư duy lý luận của Đảng; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Những thành tựu đó bắt nguồn từ việc Đảng ta có đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam…

Những thành tựu đó là cơ sở để chúng ta củng cố lòng tin vào mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; đồng thời phê phán, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phản động phủ nhận, xuyên tạc bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Với ý nghĩa như vậy, thành tựu của 35 năm đổi mới ở nước ta thực sự đã khảng định đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và của nhân dân ta.

Kết luận

Trong điều kiện mới hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế toàn cầu hóa và trong những năm tới, tình hình sẽ còn nhiều diễn biến nhanh chóng và phức tạp, nhưng chủ nghĩa xã hội vẫn là xu thế phát triển của lịch sử xã hội loài người, là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của dân tộc Việt Nam. Lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều khẳng định: con đường duy nhất đúng để đất nước phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong suốt triến trình phát triển của cách mạng Việt Nam; là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là sự lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, là sự kiên định và sáng tạo của Đảng ta dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp quy luật, đúng như Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”[13]. Chính vì lẽ đó, trong bất luận hoàn cảnh nào,  độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Cả dân tộc Vệt Nam quyết tâm đồng thuận một lòng xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh và văn minh trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Làm cho vị thế của Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Dân tộc Việt Nam bước đến đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới.

TS. Nguyễn Duy Thụy

Ủy viên Hội đồng Lý luận TW, Viện trưởng Viện KHXH vùng Tây Nguyên


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Vănkiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam (2016),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4]Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.109.

[5]Đảng Cộng sản Việt Nam (1930), Cương lĩnh Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930), Hà Nội.

[6]Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương (1930), Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930), Hà Nội.

[7]V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, tập 38, tr.165-166.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[11]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 69. 

[12]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), tlđd, tr. 70.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội