29/03/2024 lúc 18:35 (GMT+7)
Breaking News

Hưng Yên: Mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, khoa bảng

VNHN - Là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, gắn liền với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mảnh đất Hưng Yên nổi danh với hàng trăm nhà khoa bảng và nhiều nhân sĩ yêu nước.

VNHN - Là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, gắn liền với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mảnh đất Hưng Yên nổi danh với hàng trăm nhà khoa bảng và nhiều nhân sĩ yêu nước.

Văn miếu Xích Đằng tại phường Lam Sơn, TP Hưng Yên, biểu tượng về học vấn của nền văn hiến Hưng Yên

Cái nôi sinh ra hàng trăm nhà khoa bảng

Mảnh đất Hưng Yên được biết đến với truyền thống văn hiến, nhất là về cử nghiệp và thi thư. Trong 845 năm nho học, miền quê này đã ghi nhận 214 vị đỗ đại khoa. Đó là chưa kể những nhân vật huyền thoại như Tống Trân - người thôn An Đỗ, huyện Phù Dung (nay là thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ) được phong Lưỡng quốc Trạng nguyên.

Trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, các nhà khoa bảng Hưng Yên đều có nhiều đóng góp to lớn. Có thể kể đến, như: Đỗ Thế Diên - người Cổ Liêu, Đường Hào (nay thuộc xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Yên), làm quan đến Triều nghị đại phu; Phạm Ngũ Lão quê Phù ủng - Ân Thi, một danh tướng đời Trần, một thi sĩ nổi tiếng; Nguyễn Trung Ngạn người Thổ Hoàng - Ân Thi, 12 tuổi đỗ Thái học sinh, 16 tuổi đỗ Hoàng giáp, đi sứ Bắc, soạn sử Nam, đại thần của 5 đời vua Trần; Đào Công Soạn quê Thiện Phiến - Tiên Lữ, văn chương chính sự nổi tiếng một thời; Đỗ Nhân người Lại ốc - Văn Giang, làm quan đến Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ; Lê Như Hổ quê Tiên Châu - Tiên Lữ, nhà toán học, ngoại giao, sử học lỗi lạc; Đoàn Thị Điểm, được mệnh danh là Hồng Hà nữ sĩ, quê Giai Phạm - Yên Mỹ, dịch giả Chinh phụ ngâm nổi tiếng; Lê Hữu Trác người Liêu Xá - Yên Mỹ, một danh y có tiếng; Chu Mạnh Trinh quê Phú Thị - Văn Giang, nhà thơ nổi tiếng một thời.

Bên cạnh đó, các nhà đại khoa, như: Cái Phùng (Thổ Hoàng - Ân Thi), Nguyễn Nho Tông (Vực Đường - Ân Thi), Đặng Tử Nghi (Tân Lập - Yên Mỹ), Nguyễn Thì Ủng (Đa Ngưu - Văn Giang), Dương Phúc Tư (Lạc Đạo - Văn Lâm), Phạm Công Trứ (Nghĩa Hiệp - Yên Mỹ), Lê Hữu Kiều (Liêu Xá - Yên Mỹ), Bùi Ngọc Quỹ (Nghĩa Lộ - Văn Lâm),... cũng có nhiều đóng góp to lớn cho quê hương, đất nước.

Từ đầu thế kỷ XX trở lại đây, đội ngũ hiền tài của Hưng Yên ngày một đông đảo và có nhiều cống hiến cho nước nhà, nhất là trong lĩnh vực văn hoá, khoa học. Dương Quảng Hàm (nhà sư phạm, soạn giả); nhà văn, dịch giả Dương Tự Quán và danh hoạ Dương Bích Liên đều là người làng Phú Thị, Mễ Sở (Văn Giang). Làng Liêu Xá, xã Nghĩa Hiệp (Yên Mỹ) có nhà văn Vũ Trọng Phụng. Xã Tống Trân (Tiên Lữ) có nhạc sĩ tài ba Mai Văn Chung. Làng Đào Xá (Ân Thi) có nhà thơ, nhà hoạt động xã hội, nhà khoa học Phạm Huy Thông. Xã Thuỵ Lôi (Tiên Lữ) có nhà cải cách sân khấu chèo Nguyễn Đình Nghị. Làng Trà Bồ, xã Phan Sào Nam (Phù Cừ) có nhà khoa học lớn Nguyễn Công Tiễu. Làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ (Văn Giang) có danh họa Tô Ngọc Vân, nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan.

Chính những nhân sĩ đó đã góp phần tạo lên truyền thống văn hóa, văn hiến, khoa bảng đáng tự hào của miền quê Hưng Yên, là điểm tựa cho mảnh đất này phát triển.

Mảnh đất anh hùng

Từ buổi đầu dựng nước, nơi đây đã ghi dấu chiến công của các Lạc tướng Đặng Minh Đức, Đặng Chiêu Trung trên đất Nghĩa Trang (Mỹ Văn). Năm 214 TCN, quân Tần kéo sang xâm lược, nhân dân địa phương đã sát cánh chiến đấu trong đội quân của Trương Hoàng, Trương Tính (Trung Đạo - Yên Mỹ), của Nguyễn Bảo (Triều Dương - Tiên Lữ), lập nhiều chiến công hiển hách.

Thời Bắc thuộc, nhiệt huyết yêu nước của người dân Hưng Yên lại sục sôi, hết lớp này ngã xuống thì lớp sau lại vùng lên cho đến khi đuổi hết giặc Phương Bắc ra khỏi bờ cõi. Năm 40, nhiều dũng tướng đã tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống ách thống trị nhà Đông Hán, như: Nguyệt Thai, Nguyệt Độ (Khoái Châu), Lã Văn Ất (Văn Giang), Hương Thảo (Ân Thi), Mã Châu (thị xã Hưng Yên), Trần Lữu (Tiên Lữ),... đã góp phần đánh đuổi thái thú Tô Định, giải phóng Luy Lâu, Chu Diên và hơn 60 thành trì khác.

Năm 542, cuộc khởi nghĩa chống ách thống trị nhà Lương của Lý Bí đã nhận được sự hưởng ứng của Triệu Túc - thủ lĩnh vùng Chu Diên và con trai là Triệu Quang Phục. Sau khi Lý Bí mất năm 548, Triệu Quang Phục lên thay đã lui quân về Dạ Trạch, xưng là Triệu Việt Vương, giáng cho quân Lương nhiều đòn chí mạng, giết chết tướng giặc là Dương Sàn, giành lại độc lập cho dân tộc trong 20 năm.

Năm 938, tướng quân Phạm Bạch Hổ (Đằng Châu, nay thuộc thị xã Hưng Yên) và nhân dân các thôn Tiên Xá, Dị Chế (Tiên Lữ) đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng Bạch Đằng.

Đến giữa thế kỷ X, nhà Tống đã cùng với quân Chiêm Thành đánh chiếm nước ta. Nhân dân Hưng Yên đã có công chặn đánh quân Chiêm Thành ngay ở cửa ngõ Thăng Long.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông của nhà Trần, vùng đất Hưng Yên trở thành hậu cứ quan trọng. Những địa danh Xích Đằng (đoạn sông Hồng từ cuối thị xã Hưng Yên đến cửa Ba Lạt) với trận chiến Đông Bộ Đầu ngày 24-1-1258; tướng quân Phạm Ngũ Lão (Phù ủng - Ân Thi) bảo vệ vẹn toàn hoàng tộc nhà Trần trên sông Hoàng Giang; Trần Bình Trọng với trận chiến trên bãi Thiên Mạc, Khoái Châu (năm 1285).

Sang thế kỷ XV, những tên tuổi như Nguyễn Tống Biệt, Nguyễn Tuân gắn với cuộc khởi nghĩa ở Đông Kết, Hạ Hồng; cô đào Đào Thị Huệ (Đầu Đặng - Tiên Lữ) đã dùng mưu giết giặc; Bùi Dị, Lưu Nhân Chú, Doãn Nỗ cùng cánh quân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tiến đánh phủ Kiến Xương (năm 1426) và địa danh Vĩnh Động (Kim Động) - nơi Lê Lợi tiến hành duyệt binh.

Năm 1883, Đinh Gia Quế, người thôn Thọ Bình thuộc xã Tân Dân, Khoái Châu chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ chống Pháp ở Bãi Sậy. Năm 1885, Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật, người xã Xuân Dục, Mỹ Hào đã tiếp tục lãnh đạo phong trào.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, xuất hiện một số cá nhân tiêu biểu như đồng chí Nguyễn Văn Linh (Cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam), quê ở Yên Phú, xã Giai Phạm (nay thuộc Yên Mỹ); đồng chí Tô Hiệu, quê ở Xuân Cầu (Nghĩa Trụ, Văn Giang); đồng chí Lê Văn Lương (Nguyễn Công Miễu), quê xã Nghĩa Trụ (Văn Giang); đồng chí Nguyễn Thị Nghĩa, quê ở Chợ Thi (Ân Thi); đồng chí Ngô Huy Tăng quê ở thôn Ngọc Lập, Mỹ Hào (nay là xã Phùng Chí Kiên, Mỹ Hào); đồng chí Nguyễn Văn Nhân, quê ở làng Đào Xá (Ân Thi).

Giai đoạn (1945 - 1954), quân và dân Hưng Yên đã đánh 9.022 trận, tiêu diệt 19.275 tên địch, bắt sống 4.917 tên, ra hàng 12.052 tên. Những chiến công trên đường 5, đường sắt và vùng phụ cận đã góp phần làm nên "Sấm đường 5" vang dội.

Thời kỳ chống Mĩ (1954 -1975), trận địa tên lửa ở Long Hưng (Văn Giang) đã góp phần bắn rơi 10 chiếc máy bay địch năm; bộ đội phòng không Hưng Yên bắn rơi 02 máy bay địch;.... Với những chiến công đó, Hưng Yên và Hải Dương được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân./.