28/03/2024 lúc 18:48 (GMT+7)
Breaking News

Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa thương mại

VNHN - Trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế là xu hướng tất yếu đối với tất cả các quốc gia, kể cả Việt Nam. Bài viết này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những thành tựu và hạn chế của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế dựa trên dữ liệu thứ cấp từ các nguồn của các cơ quan trong và ngoài nước

VNHN - Trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế là xu hướng tất yếu đối với tất cả các quốc gia, kể cả Việt Nam. Bài viết này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những thành tựu và hạn chế của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế dựa trên dữ liệu thứ cấp từ các nguồn của các cơ quan trong và ngoài nước. Bài viết áp dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp và kết luận về các vấn đề đa dạng của quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa thương mại ngày nay. Từ đó, chúng ta có thể thấy những thành tựu và thách thức (hạn chế) mà Việt Nam đang phải đối mặt hiện tại và trong tương lai. Bài viết đề xuất các giải pháp phát huy thế mạnh của Việt Nam để tạo thêm thành tích và khắc phục các hạn chế trong đối mặt với những thách thức và khó khăn trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và trở thành đối tác tin cậy trên trường quốc tế.

Từ khóa: hội nhập kinh tế, thành tựu, hạn chế, Việt Nam.

Ảnh minh họa - TL

  1. Dẫn nhập

Hội nhập kinh tế với nền kinh tế toàn cầu và khu vực gần đây đã là xu hướng rõ rệt ở Việt Nam. Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN năm 1995 và tham gia Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, đồng thời đàm phán tư cách thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việt Nam cũng đã ký một hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ vào năm 2000, và đã tham gia vào thỏa thuận thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN. Hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới bắt đầu từ chính sách Đổi Mới vào cuối những năm 1980 và tiếp tục cho đến ngày nay (Dana & Dana, 2003; Dana, 2010; Dana, 1994). Hội nhập kinh tế quốc tế là động lực chính cho sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam (Tien, 2019a).

Đối với Việt Nam, 05 năm tới sẽ là cột mốc quan trọng trong chính sách kinh tế và chiến lược phát triển. Báo cáo của Ủy ban Tăng trưởng và Phát triển đưa ra một ví dụ về 13 quốc gia thành công trong phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian dài sau Thế chiến II. Mặc dù không nằm trong danh sách 13 quốc gia này, Việt Nam được coi là một nền kinh tế có tiềm năng duy trì tăng trưởng cao (Batiz & Romer, 1991).

Nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng và thu nhập trung bình đã tăng mạnh trong hai thập kỷ qua, nhưng trong tương lai nền kinh tế có thể phải đối mặt với nhiều thách thức hơn. Trong hai thập kỷ qua, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp năng suất thấp sang chế biến sản xuất thâm dụng lao động (Tien & Ngọc, 2019; Doanh, 2009; Danthine & Hunt, 1994). Thách thức trong tương lai là làm thế nào để đưa Việt Nam lên nấc thang mới trong chuỗi giá trị và thậm chí tăng năng suất lao động. Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội, củng cố sức mạnh tổng hợp quốc gia. Việt Nam cần thúc đẩy mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng nguồn vốn lớn, công nghệ, kiến ​​thức, chuyển giao kinh nghiệm quản lý và nhập khẩu các nguồn lực quan trọng để tạo thêm việc làm,  các doanh nghiệp duy trì tăng trưởng bền vững đáng kể (Tien và Kuc, 2019; FM, 2018a ; FM, 2018b).

Hội nhập kinh tế quốc tế cùng với nỗ lực cải cách môi trường đầu tư và kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đang dần khẳng định vị trí đúng đắn của Việt Nam trên trường quốc tế và trong mắt các nhà đầu tư. Báo cáo kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng Thế giới dự đoán Việt Nam sẽ được xếp hạng 68 trên 190 nền kinh tế, tăng 14 độ so với năm 2017 (82/190 nền kinh tế) (Tiến, 2017a). Việt Nam cũng đã tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế tài chính và các hiệp định thương mại. Ngoài ra, Việt Nam tiếp tục đàm phán các hiệp định đối tác toàn diện trong khu vực như Thỏa thuận toàn diện và tiến bộ về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Cho đến nay, khoảng 60 nền kinh tế trên thế giới đã đàm phán FTA với Việt Nam, bao gồm các đối tác thương mại quan trọng nắm giữ khoảng 90% thương mại của Việt Nam (Tien, 2018a; Tien, 2018b; Davis, 2011).

Một câu hỏi chính sách quan trọng đối với Việt Nam là làm thế nào để duy trì tăng trưởng kinh tế cao, cả trong ngắn hạn và dài hạn để duy trì năng suất và lợi tức đầu tư ở mức cao hơn, đồng thời cải thiện thu nhập bình quân đầu người và tiếp tục giảm tỷ lệ nghèo (Tien, 2019b). Điều này có liên quan đến việc Việt Nam có thể kế thừa những thành tựu cho đến nay và khắc phục những hạn chế trên con đường phát triển kinh tế xã hội bền vững. Đây là một mục tiêu chính của phân tích của chúng tôi trong bài viết này.

  1. Cơ sở lý luận

Từ quan điểm kinh tế, theo Jovanovic và Lipsey (1992), hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những phương tiện để tăng phúc lợi. Với cách tiếp cận này, các quốc gia có thể tăng phúc lợi của một hoặc một số quốc gia trong nhóm, hoặc của thế giới nói chung. Balassa (1973, tr.1) định nghĩa hội nhập kinh tế quốc tế cả về quá trình diễn biến và thực trạng. Maksimova (1976, tr. 33) cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phát triển mối quan hệ phân chia lao động sâu sắc và ổn định giữa các nền kinh tế quốc gia. Marer và Montias (1988, tr. 156) chỉ ra rằng hội nhập kinh tế theo truyền thống được đánh đồng với sự phân công lao động ở các khu vực địa lý. Gần đây, hội nhập kinh tế quốc tế được cho là bao gồm sự quốc tế hóa thị trường vốn, lao động, công nghệ và khởi nghiêp ngoài thị trường hàng hóa và dịch vụ hiện nay. Hội nhập kinh tế quốc tế, theo nghĩa đơn giản và phổ biến nhất, là nơi các nền kinh tế quốc gia gắn kết với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế quốc tế đã diễn ra hàng ngàn năm khi Đế chế La Mã xâm chiếm thế giới và mở rộng mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh thổ rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền riêng của họ cho toàn bộ vùng đất rộng lớn này. Hội nhập kinh tế là mối liên kết thể chế giữa các nền kinh tế. Khái niệm này đã được Béla Balassa đề xuất từ ​​những năm 1960 và được chấp nhận trong giới học thuật và chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình tích cực thực hiện đồng thời hai điều: một mặt, liên kết nền kinh tế và thị trường của mỗi quốc gia với thị trường khu vực và thế giới thông qua việc mở và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc gia; mặt khác, tham gia và đóng góp vào việc xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Theo Từ điển kinh doanh, hội nhập kinh tế là một thỏa thuận giữa các quốc gia trong khu vực địa lý nhằm giảm thiểu và cuối cùng là xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan để đảm bảo dòng hàng hóa hoặc dịch vụ tự do và các yếu tố sản xuất. Đó là bất kỳ loại thỏa thuận nào trong đó các quốc gia đồng ý phối hợp các chính sách thương mại, tài khóa và / hoặc tiền tệ của họ được gọi là hội nhập kinh tế. Rõ ràng, có nhiều giai đoạn (hoặc cấp độ) khác nhau của hội nhập. Hội nhập kinh tế thường được coi là có sáu cấp: hiệp định thương mại ưu đãi, hiệp định thương mại tự do, liên minh hải quan, thị trường chung, liên minh tiền tệ và hội nhập toàn diện (Tien, 2019a). Tuy nhiên, trong thực tế, mức độ tích hợp có thể ngày càng đa dạng hơn.

Trên thực tế, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế. Nói chung, có ba cách tiếp cận chính (Tien, 2019a; ESS, 2018). Cách tiếp cận đầu tiên coi hội nhập là một thành quả cuối cùng chứ không phải là một quá trình. Thành quả này là sự hình thành của một quốc gia liên bang như Hoa Kỳ hoặc Thụy Sĩ. Những người theo trường phái này chủ yếu quan tâm đến các khía cạnh pháp lý và thể chế. Cách tiếp cận thứ hai, với học thuyết của Karl W. Deutsch là trụ cột, trước hết xem hội nhập như là cách liên kết các quốc gia thông qua phát triển trao đổi như thương mại, đầu tư, thư tín kinh doanh, thông tin, du lịch, di cư, văn hóa, v.v. và dần cộng đồng quốc tế được hình thành. Theo ông, có hai loại cộng đồng quốc tế: cộng đồng thống nhất như Hoa Kỳ và cộng đồng đa văn hóa như Tây Âu. Do đó, cách tiếp cận thứ hai này coi hội nhập quốc tế là cả một quá trình và thành quả cuối cùng. Cách tiếp cận thứ ba coi hội nhập quốc tế là một hiện tượng trong đó các quốc gia mở rộng và tăng cường mối quan hệ hợp tác trên cơ sở phân chia lao động quốc tế có chủ đích của mỗi quốc gia và theo đuổi mục tiêu riêng của họ.

  1. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, các nhà nghiên cứu có nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ thương mại với các quốc gia và tổ chức khác là cơ hội để đưa Việt Nam trở thành một quốc gia có nền kinh tế phát triển và đây cũng là xu hướng không thể thiếu và không thể đảo ngược trên toàn cầu (Tien & Anh, 2019b). Bằng cách sử dụng phương pháp thống kê để điều tra 500 doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất tại Việt Nam trong các năm 2008-2011, 2009-2012, 2010-2013, kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp FDI đã đạt được tốc độ tăng trưởng hai chữ số trong thời gian dài. Đây là một lập luận quan trọng rằng các doanh nghiệp FDI có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam (Trung, 2015; Tien, 2018c; Davis, 2011). Trong bài viết này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp tổng hợp để xem xét những thành tựu quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế trong 30 năm qua cũng như tóm tắt những bài học kinh nghiệm cho quá trình hội nhập của Việt Nam trong tương lai. Nó cho thấy quá trình hội nhập không ngừng được chú trọng và thúc đẩy bởi Đảng, chính phủ và Nhà nước Việt Nam (Tien & Minh, 2019a; Tien & Minh, 2019b; Binh, 2015). Bài viết này đã sử dụng nghiên cứu tình huống vĩ mô làm phương pháp nghiên cứu để tổng hợp và đưa ra kết luận về quá trình hội nhập của Việt Nam cũng như những thành tựu và thách thức của nó hiện tại và trong tương lai.

  1. Kết quả nghiên cứu

Thành tựu

Trong 30 năm cải cách (từ thời kỳ đổi mới), từ Đại hội 6 đến Đại hội 12, Đảng Cộng sản Việt Nam (VCP) đã đưa ra chính sách đúng đắn trong việc mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Sự kiện lớn nhất là sự gia nhập của Việt Nam vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 1 năm 2007, đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới (Cling et al, 2008). Tháng 5 năm 2008, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện đã được ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ tháng 10/2015, Việt Nam là một trong những thành viên tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) (Tien, 2018b; Tien & Anh, 2019c). Việt Nam đã thực hiện cải cách kinh tế theo cách minh bạch hơn và chính sách kinh tế theo hướng tự do hơn, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp cận những thành tựu của khoa học và công nghệ trên thế giới, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp trong nước vào môi trường cạnh tranh thực sự. Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội nhận được nhiều kinh nghiệm trong quản lý sản xuất hiện đại thông qua các dự án liên doanh với các đối tác nước ngoài. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng để đưa ra những phát triển mới trong ngành sản xuất (Tien & Kuc, 2019).

Hội nhập kinh tế quốc tế buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh ở cả thị trường trong và ngoài nước. Do đó, họ phải liên tục đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng quản lý, thúc đẩy các hoạt động tiếp thị và quản trị thương hiệu để tồn tại và phát triển (Tien & Minh, 2019a). Hiện nay, nhiều mặt hàng sản xuất trong nước được đánh giá cao và coi là có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Một số công ty lớn đã đầu tư ra nước ngoài như Viettel, PetroVietnam, Hoàng Anh Gia Lai, cà phê Trung Nguyên, Vinamilk, v.v ... Thị trường của các tập đoàn này là các nước phát triển và đang phát triển như: Lào, Nga, Singapore, Campuchia, Anh và Đài Loan (MoFa, 2002 ; VOV, 2018).

Theo xu hướng thiết lập các khu vực thương mại tự do trên thế giới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng thương mại và xuất khẩu tới hơn 230 thị trường của các quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết 90 hiệp định thương mại song phương và gần 60 hiệp định về xúc tiến và bảo vệ đầu tư, 54 hiệp định về đánh thuế hai lần, 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 56 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới, trong đó có 6 FTA đang tích cực tham gia bên ngoài khuôn khổ ASEAN hoặc với các nước đối tác ASEAN và nhiều hiệp định hợp tác văn hóa với nước ngoài và các tổ chức quốc tế (Tien, 2019a; Dung, 2007; Infonet, 2018).

Việt Nam cũng tích cực tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) để đạt được thỏa thuận kinh tế toàn diện phù hợp với điều kiện của Việt Nam và các nước ASEAN. Việt Nam chính thức gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và hoàn thành thành công Chủ tịch luân phiên ASEAN vào năm 2010. Năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. (Tien, 2019a). Với việc tích cực triển khai các biện pháp ưu tiên để thực hiện Kế hoạch tổng thể AEC, Việt Nam được coi là một trong những quốc gia thành viên có tỷ lệ thực thi các biện pháp cao nhất trong AEC (Athukorala, 2009).

Quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội, mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam về mối quan hệ sâu sắc với các nước trong khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trong đấu trường quốc tế. Đồng thời, hội nhập và quan hệ kinh tế quốc tế tạo nhiều cơ hội cho Việt Nam thực hiện chiến lược tái cơ cấu thị trường xuất khẩu một cách cân bằng hơn, thúc đẩy cải cách và tái cấu trúc nền kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và tạo nền tảng vững chắc cho nền kinh tế. Cụ thể, số lượng thị trường xuất khẩu đã tăng hơn 1,4 lần trong 10 năm, từ 160 thị trường lên hơn 230 thị trường. Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu đã chuyển sang giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc và các nước châu Á khác (Tien et al, 2019; Tien & Anh, 2019a; Grinter, 2006).

Kể từ đó, hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động lớn đến tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực sản xuất và mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực như công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Bước tiếp theo là thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, phù hợp với chính sách hiện đại hóa và công nghiệp hóa, từ đó tập trung nhiều hơn vào chế biến và sản xuất hàng hóa đòi hỏi giá trị đầu vào và nội dung công nghệ cao hơn và cung cấp sản phẩm đầu ra và dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn. Hướng tới mục tiêu đó, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa việc thúc đẩy thương mại, tăng sức hấp dẫn của đầu tư nước ngoài và mở rộng hợp tác và phát triển quốc tế (Tien, 2018b).

Tạo hiệu ứng tích cực, thúc đẩy cải cách và hoàn thiện cơ chế của nền kinh tế thị trường và cải thiện môi trường kinh doanh, từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong dài hạn, tạo ra môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng, minh bạch và có thể dự đoán được và ngày càng phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất khu vực, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, tập trung hơn vào chế biến và sản xuất các sản phẩm có giá trị và hàm lượng công nghệ cao và giá trị gia tăng cao hơn (Tien, 2019b; Tien & Kuc, 2019).

Kết quả nói trên góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, củng cố hệ thống chính trị, nâng cao uy tín và vai trò của Đảng và Nhà nước, củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tạo nền tảng để đảm bảo an ninh quốc phòng và các điều kiện tốt hơn để thực hiện các chương trình xã hội như xóa đói giảm nghèo và phát triển của nhiều vùng nông thôn miền núi xa xôi (Tien & Minh, 2019a ; Tien & Minh, 2019b).

Hạn chế

Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế cũng giúp Việt Nam nhận ra những hạn chế và thách thức mà nó đang phải đối mặt:

Thứ nhất, các hướng dẫn, chính sách cũng như luật pháp về hội nhập kinh tế quốc tế đang chậm được cải cách so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế hoàn chỉnh. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng bị ảnh hưởng bởi các cách tiếp cận một chiều, ngắn hạn và địa phương. Do đó, các doanh nghiệp trong nước đã không thể tận dụng triệt để các cơ hội và đối phó hiệu quả với các thách thức.  

   Thứ hai, trong một số trường hợp, hội nhập kinh tế quốc tế được coi là một quá trình thụ động.

Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế chưa được đồng bộ hóa với quá trình tăng tính liên kết giữa các vùng và khu vực trong cả nước (Tien & Ngoc, 2019). Cơ chế chỉ đạo, quản lý, giám sát và điều phối quá trình hội nhập, từ cấp trung ương đến địa phương, giữa các ngành và giữa các ngành vẫn còn nhiều thiếu sót.

Thứ tư, doanh nghiệp Việt Nam hầu hết có quy mô nhỏ, yếu về năng lực quản lý và phát triển công nghệ. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thiết bị kỹ thuật lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn kém. Ngoài ra, nguồn nhân lực nói chung về cơ bản không đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng với nhận thức còn hạn chế về luật kinh doanh quốc tế, không đủ năng lực công nghệ và kinh nghiệm quản lý (Tien, 2018a; Tien, 2017b; Braun, 2008).

Với việc gia nhập WTO 2007, Việt Nam đã có những cải cách tiến bộ hơn về chính sách kinh tế, thương mại và đầu tư theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực hội nhập với thế giới, việc xác định đúng ý nghĩa, bản chất và phong trào hội nhập kinh tế quốc tế là rất quan trọng trong việc phát triển quốc gia, điều tiết chiến lược, chính sách và các biện pháp hoạt động liên quan.

Tại Việt Nam, thuật ngữ 'hội nhập kinh tế quốc tế' bắt đầu được sử dụng vào giữa những năm 1990, kết hợp với quá trình gia nhập của Việt Nam vào ASEAN, gia nhập Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA). Ngoài ra, việc ký kết hai Hiệp định và ký kết hai Hiệp định quan trọng là TPP và Việt Nam-EU sẽ có tác động đáng kể đến nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Cụ thể, khi xuất khẩu và nhập khẩu, đây là quá trình thực hiện các cam kết cắt giảm thuế trong hội nhập kinh tế quốc tế, cải thiện hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế và giảm thiểu hàng rào thuế quan, tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Về cơ cấu lại sản xuất hàng hóa xuất khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là theo hướng tích cực và phù hợp. Quá trình công nghiệp hóa đang diễn ra, tập trung nhiều hơn vào các hoạt động chế biến và sản xuất giá trị gia tăng bằng cách áp dụng công nghệ cao. Với mục đích thu hút FDI, tại Việt Nam, các nhà đầu tư có thể hưởng thuế quan ưu đãi từ các thị trường lớn mà Việt Nam đã ký kết các FTA như ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ (Amitay, 1992). Ngoài ra, việc thực hiện các cam kết trong các thỏa thuận thế hệ mới như TPP và EVFTA sẽ giúp môi trường đầu tư tại Việt Nam cởi mở hơn, minh bạch và thuận lợi hơn, thu hút nhiều vốn đầu tư hơn. Con đường giảm thuế trong các FTA sẽ dẫn đến giảm thu ngân sách nhà nước cho hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, tác động của việc giảm thuế đối với tổng thu ngân sách nhà nước là không đáng kể. Nhìn chung, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang mang đến nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam. Với 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, áp lực cạnh tranh đối với nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam là rất cao. Đối với sản xuất trong nước, tự do hóa thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nhập khẩu từ các nước khác, đặc biệt là từ các nước TPP, các nước EU tại Việt Nam do giá rẻ hơn, chất lượng tốt hơn và thiết kế đa dạng. Ngoài ra, khi các hàng rào thuế quan được gỡ bỏ, vì các rào cản kỹ thuật không hiệu quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường cho các sản phẩm chất lượng thấp ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Đối với lĩnh vực đầu tư, sự gia tăng dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam cũng kêu gọi tăng cường năng lực của các cơ quan quản lý để giám sát dòng vốn và để tránh rủi ro bong bóng đầu cơ để nền kinh tế có thể hấp thụ vốn hiệu quả. Ngược lại, hội nhập cũng đặt nhiều quốc gia trước nhiều bất lợi và thách thức, đặc biệt: hội nhập làm tăng sự cạnh tranh khốc liệt đẩy các doanh nghiệp và ngành công nghiệp địa phương gặp nhiều khó khăn và thậm chí phá sản, dẫn đến hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài, do đó làm cho nền kinh tế quốc gia dễ bị tổn thương trước những biến động trên thị trường quốc tế. Nền kinh tế quốc dân không thể phân phối lợi ích và rủi ro một cách công bằng tuyệt đối cho các ngành và nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội, do đó làm tăng khoảng cách giàu nghèo. Trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ thay đổi kinh tế bất lợi do xu hướng tập trung vào các ngành thâm dụng tài nguyên, sử dụng nhiều lao động nhưng không có giá trị tri thức. Do đó, chúng đang ta có nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ thấp, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường. Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế có thể khiến tất cả các quốc gia đối mặt với nguy cơ khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp (Abbott & Bentzen, 2009).

  1. Kết luận và khuyến nghị  

Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để mở cửa ra thế giới và phát triển, tồn tại hay không tồn tại. Theo thời gian, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong hội nhập quốc tế, trở thành một quốc gia có vị trí cao trong khu vực, đã tham gia vào các tổ chức quốc tế lớn như Liên hợp quốc; WTO; ASEAN, ASEM và APEC. Việt Nam đã ký các hiệp định thương mại tự do song phương với các đối tác hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập cho phép Việt Nam thu hút hiệu quả cả ba nguồn lực quốc tế chính: đầu tư trực tiếp nước ngoài, ODA và kiều hối. Tham gia hội nhập quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, không ngừng phát triển cả về quy mô và tốc độ. Nhập khẩu và xuất khẩu của Việt Nam đã trở thành động lực chính cho sự phát triển kinh tế quốc gia. Quá trình hội nhập quốc tế đã góp phần đào tạo nâng cao các nhà quản lý, doanh nhân Việt Nam và nguồn nhân lực có trình độ cao, cả về chuyên môn và quản lý. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng đẩy nhanh quá trình cải cách hành chính và cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường toàn diện, chào đón và tạo điều kiện cho các đối tác nước ngoài đến và làm ăn với Việt Nam. Vai trò của Chính phủ là tích cực tham gia đàm phán các hiệp định thương mại và đầu tư song phương và đa phương trong khuôn khổ WTO, APEC, ASEAN, ASEM, v.v ... Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thương mại và đầu tư của Việt Nam phát triển, huy động mọi nguồn lực để thành công thực hiện ba bước đột phá chiến lược: cải cách thể chế; phát triển cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực. Để phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại trong hội nhập quốc tế, điều cần thiết là đất nước phải có cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại. Để huy động mọi nguồn lực để phát triển cơ sở hạ tầng thành công, cần phải minh bạch và đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, tăng cường kiểm tra và kiểm soát việc vay và sử dụng các khoản vay về mặt sử dụng hiệu quả bằng cách kiên quyết chống lãng phí và tham nhũng để duy trì niềm tin nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chất lượng nguồn nhân lực thấp không chỉ được quyết định bởi hệ thống giáo dục mà còn phụ thuộc vào cơ chế sử dụng nguồn nhân lực. Do đó, cần phải cải cách cơ chế sử dụng và đối xử với nhân tài theo hướng sử dụng và khen thưởng dựa trên hiệu suất lao động thực tế chứ không chỉ dựa trên bằng cấp. Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách để ổn định nền kinh tế vĩ mô và cải thiện môi trường sản xuất và kinh doanh để thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào sản xuất hàng hóa và dịch vụ và thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường khu vực và thế giới. Chính phủ nên thực hiện các chính sách trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do để cho phép các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu vào chuỗi cung ứng hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho mục đích xuất khẩu. Điều quan trọng là tổ chức hiệu quả việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu có tính cạnh tranh cao và thâm nhập các thị trường xuất khẩu đa dạng. Đồng thời, luật chống bán phá giá, chống trợ cấp trong khuôn khổ của WTO cần được cải thiện nhanh chóng để bảo vệ thị trường nội địa trước sự xâm nhập của hàng hóa nước ngoài phù hợp với việc thực thi các hiệp định thương mại quốc tế. Chính phủ cần cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư để thu hút thêm đầu tư nước ngoài (trực tiếp và gián tiếp) vào Việt Nam. Trong tương lai, cần áp dụng các chính sách thuận lợi hơn để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghệ cao (công nghệ sinh học, công nghệ điện tử, công nghệ thông tin và truyền thông. Song song với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, sự phát triển hơn nữa của thị trường chứng khoán quốc gia được khuyến khích mạnh mẽ để kết nối với thị trường tài chính thế giới, khơi thông nguồn vốn cho các nhà đầu tư quốc tế tại Việt Nam.

    PGS. TS. Nguyễn Văn Trình và TS. Nguyễn Hoàng Tiến - Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn

GS. Leo Paul Dana, Trường kinh doanh Montpellier, Pháp

Tài liệu tham khảo

  1. Abbott, P., Bentzen, J., & Tarp, F. (2009). Trade and Development: Lessons from Vietnam’s Past Trade Agreements. World Development, 37(2), 341–353.
  2. Amitav, A. (1992). Regionalism and Regime Security in the Third World: Comparing the Origins of ASEAN and the GCC, in: Job, B. L. (ed.), The Insecurity Dilemma: National Security of Third World States, Boulder, Lynne Rienner, 1992.
  3. Athukorala, P. C. (2009). Economic Transition and Export Performance in Vietnam Coping with Domestic and External Challenges, ASEAN Economic Bulletin, 26(1), April 2009, 96-114.
  4. Balassa B. (1973). Tariff and Trade Policy in the Andean Common Market, Journal of Common Market Studies, Vol. 12, Issue 2, pp. 176-195.
  5. Batiz, L. A. R, & Romer, P. M. (1991). Economic Integration and Endogenous Growth. The Quarterly Journal of Economics, 106(2), 531.
  6. Binh, N. T. (2015). 30 years of Vietnam's international economic integration: Achievements, challenges and lessons, Development and Integration Magazine No. 22/2015.
  7. Braun, S. (2008). Economic Integration, Process and Product Innovation, and Relative Skill Demand, Review of International Economics, 16(5), 864–873.
  8. Cling, J. P., Marouani, M. A., Razafindrakoto, M., Robilliard, A. S., & Roubaud, F. (2008). Vietnam’s Terms of Accession and Distributional Impact of WTO Membership. DIAL Document de Travail.
  9. Dana, L. P. and Dana, T. (2003) ‘Management and enterprise development in post-communist economies’, International Journal of Management and Enterprise Development, Vol. 1, No. 1, pp. 45-54.
  10. Dana, L. P. (2010) ‘When Economies Change Hands: A Survey of Entrepreneurship in the Emerging Markets of Europe from the Balkans to the Baltic States’, New York & Oxford: Routledge,
  11. Dana, L. P. (1994) ‘A Marxist Mini-Dragon? Entrepreneurship in Today's Vietnam’, Journal of Small Business Management, Vol. 32, No. 2, pp. 95-102.
  12. Danthine, J. P., & Hunt, J. (1994). Wage bargaining structure, employment and economic integration. Economic Journal 104(424), 528. Doi: 10.2307/2234629.
  13. Davis, G. D. (2011). Regional Trade Agreements and Foreign Direct Investment. Politics & Policy, 39(3), 401–419
  14. Doanh, N. K. (2009). Impacts of Trade Liberalisation Commitments on the Vietnamese Economy: A CGE Approach. World Economy, 32(4), 606–628.
  15. Dung, N. T. (2007) Impacts of East Asian Integration on Vietnam: A CGE Analysis. Lecturer, Faculty of International Economics College of Economics, Vietnam National University, Hanoi.
  16. El-Halwagi, M. M. (2006). Process Integration, Process Systems Engineering, Volume 7, 1st Edition, Elsevier Inc., Academic Press.
  17. ESS (2018). International Integration: Some theoretical and practical issues East Sea Study [Accessed September 6, 2018]
  18. FM (2018a). The impact of international economic integration on Vietnam's economy Financial magazine [Accessed September 6, 2018]
  19. FM (2018b). Vietnam's international economic integration and measures

Financial magazine, [Accessed October 15, 2018]

  1. Friedler, F. (2010). Process Integration, Modelling and Optimisation for Energy Saving and Pollution Reduction, Applied Thermal Engineering, 30(16), November 2010, 2270-2280.
  2. Grinter, L. E. (2006). Vietnam’s Thrust into Globalisation: Innovation’s Long Road. Asian Affairs: An American Review, 33(3), 151–166
  3. Gundersen, T. (2002). IEA- a Process Integration Primer, SINTEF Energy Research, Trondheim, Norway.
  4. Ha, P. T. (2017). International integration of Vietnam - the process of developing awareness, practical achievements and some requirements. Ho Chi Minh City National Political Academy - Regional Political Academy I.
  5. Infonet (2018), Major milestones in Vietnam's international economic integration process

Infonet [Access October 15 2018]

  1. Jovanovic, M. N., & Lipsey, R. G. (1992). International Economic Integration, Limits and Prospects. 2nd Edition, Routledge Publisher.
  2. Mai, T. T. T. (2009). Economic function of the state in the market economy in Vietnam today. Hanoi, 2009.
  3. Maksimova, M. (1976). Comments on paper types of economic integration, by Balassa B. in Economic Integration Worldwide, Regional, Sectorial (ed. F. Machlup)
  4. MoFA (2002). Ministry of Foreign Affairs: Vietnam integrates into the economy in the globalisation trend: Problems and solutions, National Political Publishing House, Hanoi, 2002.
  5. Raskovic, P. (2007). Process integration approach for energy saving and pollution prevention in industrial plants, Faculty of Technology Engineering, Leskovac, Serbia, 2007.
  6. Rossiter, A. P. & Kumana, J. D. (1995). Pollution Prevention and Process Integration – Two Complementary Philosophies, in: Rossiter, A. P. (ed.), “Waste Minimization through Process Design”, McGraw-Hill, New York, 1995, pp. 43-49.
  7. Tien, N. H. (2017a). Global strategic marketing management. Ementon Publisher, Warsaw
  8. Tien, N. H. (2017b). Strategic international human resource management. Ementon Publisher, Warsaw
  9. Tien, N. H. (2018a). CP-TPP Chances and Challenges for Young Labor Resource in Vietnam. Proceedings of University Scientific Conference on “The Impact of CP-TPP Agreement on Young Labor Resource and Vietnam Economy”, 118-123. 11 January 2019, Ho Chi Minh City Open University, Ho Chi Minh City. ISBN: 978-604-67-1193-3
  10. Tien, N. H. (2018b). Solutions for Vietnam to Adapt and Integrate with CP-TPP in an Era of Industrial Revolution 4.0. Proceedings of University Scientific Conference on “The Impact of CP-TPP Agreement on Young Labor Resource and Vietnam Economy”, 109-117. 11 January 2019, Ho Chi Minh City Open University, Ho Chi Minh City. ISBN: 978-604-67-1193-3
  11. Tien, N. H. (2018c). Enhancing Effectiveness of FDI Usage in Southern Economic Region of Vietnam. Proceedings of NATIONAL SCIENTIFIC CONFERENCE on “Solutions for Attracting Investments for the Development of Southern Economic Region of Vietnam”, 177-186. April 2019, Banking University, Ho Chi Minh City. ISBN: 978-604-79-2089-1
  12. Tien, N. H., Hung, N. T., Vu, N. T., & Bien, B. X. (2019). Risks of Vietnamese Enterprises in Trade Relations with China. “INTERNATIONAL JOURNAL OF RESEARCH IN FINANCE AND MANAGEMENT”, Vol. 3, No. 1, 1-6. ISSN : 2617-5762. http://www.allfinancejournal.com/article/view/45/2-2-28
  13. Tien, N. H., & Minh, H. T. T. (2019a). Challenges for Vietnamese Business Leaders in the Era of International Economic Integration and Industrial Revolution 4.0. “INTERNATIONAL JOURNAL OF COMMERCE AND MANAGEMENT RESEARCH”, Vol. 5, No. 5, 19-24. ISSN : 2455-0627. http://www.managejournal.com/download/894/5-4-39-242.pdf 
  14. Tien, N. H., & Minh, H. T. T. (2019b). Leadership, Power and Influence in State -owned Enterprises in Vietnam. “INTERNATIONAL JOURNAL OF COMMERCE AND MANAGEMENT RESEARCH”, Vol. 5, No. 5, 71-74. ISSN : 2455-0627. http://www.managejournal.com/download/904/5-4-38-141.pdf
  15. Tien, N. H., & Kuc, B. R. (2019). The Economic Integration Process of Vietnam – Achievements and Limitations. “INTERNATIONAL JOURNAL OF RESEARCH IN MANAGEMENT”, Vol. 1, No. 3, 6-11. ISSN : 2664-8806. http://www.managementpaper.net/article/view/10/1-3-12
  16. Tien, N. H., & Ngoc, N. M. (2019). Successes and Limitations of the Economic Linkage in the Vietnam’s South-East Region. Proceedings of University Scientific Conference on: “Changing Model of Economic Growth for South East Vietnam”, 314-323. Thu Dau Mot University Binh Duong, 26 April 2019.
  17. Tien, N. H. (2019a). International Economics, Business and Management Strategy. Scientific Publications, Dehli
  18. Tien, N. H. (2019b). Relationship between Working Environment and Labor Efficiency. Comparative Analysis between State Owned and Foreign Enterprises in Vietnam. Proceedings of University Scientific Conference on: “The Role of Scientific Workers in Socio-economic Development of Quang Ngai Province and South Central Vietnam”. Pham Van Dong University. June 2019, Quang Ngai, Vietnam.
  19. Tien, N. H., & Anh, D. B. H. (2019a). Vietnam’s International Trade Policy in Context of China-US Trade War. “INTERNATIONAL JOURNAL OF COMMERCE AND MANAGEMENT RESEARCH”, May 2019, Vol 5, No 3, 92-95. ISSN : 2455-1627. http://www.managejournal.com/archives/2019/vol5/issue3  
  20. Tien, N. H., & Anh, D. B. H. (2019b). The Role of International Trade Policy in Boosting Economic Growth of Vietnam. “INTERNATIONAL  JOURNAL OF COMMERCE AND MANAGEMENT RESEARCH”, May 2019, Vol. 5, No. 3, 107-112. ISSN : 2455-1627. http://www.managejournal.com/archives/2019/vol5/issue3 
  21. Tien, N. H., & Anh, D. B. H. (2019c). Trade Freedom and Protectionism of Leading Economies in Global Trade System. “INTERNATIONAL  JOURNAL OF COMMERCE AND MANAGEMENT RESEARCH”, May 2019, Vol. 5, No. 3, 100-103. ISSN : 2455-1627. http://www.managejournal.com/archives/2019/vol5/issue3
  22. Timonen, J., Antikainen, M., & Huuhka, P. (2006). Competitiveness through Integration in Process Industry Communication. Evaluation report. Technology program report 11/ 2006. National Technology Agency of Finland (TEKES). Helsinki.
  23. Tru, P. Q. (2010). Vietnam's current status of international economic integration in the past years and prospects for the coming years, Journal of International Studies 1(80), March 2010.
  24. Trung, H. (2015). International economic integration: Growth opportunities and challenges, Vietnamnet, 2015.
  25. VOV (2018). Foreign Affairs contributes to creating core values ​​for Vietnamese trade, Voice of Vietnam [Access September 6, 2018].