29/03/2024 lúc 20:14 (GMT+7)
Breaking News

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế

VNHN - Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ là bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng cán bộ cấp chiến lược. Trong đó đã nhấn mạnh việc nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, cụ thể là kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đối với đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ cấp chiến lược nói
VNHN - Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ là bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng cán bộ cấp chiến lược. Trong đó đã nhấn mạnh việc nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, cụ thể là kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đối với đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ cấp chiến lược nói riêng.

TS. Đặng Xuân Hoan – Giám đốc Học viện trao Giấy khen cho các học viên đạt thành tích cao trong khóa bồi dưỡng.

Quan điểm của Đảng, Nhà nước về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ là bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng cán bộ cấp chiến lược. Đây là văn kiện đầu tiên của Đảng đưa ra đánh giá một cách toàn diện về công tác xây dựng cán bộ cấp chiến lược, để trên cơ sở đó ban hành nghị quyết chuyên đề về cán bộ cấp chiến lược (Nghị quyết số 26-NQ/TƯ ngày 19/5/2018 – sau đây viết tắt là Nghị quyết số 26).

Nghị quyết nhận định: “Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện”1. Đồng thời, Nghị quyết số 26 cũng thẳng thắn chỉ ra rằng: “nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế”2.

Trên cơ sở đó, Nghị quyết 26 đề ra 5 quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ cấp chiến lược nói riêng. Trong đó, quan điểm đầu tiên là “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, hệ trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”3.

Quan điểm thứ hai, thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.

Quan điểm thứ ba, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân4

Quan điểm thứ tư, quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới, ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm, cá nhân và tập thể5.

Quan điểm thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức cán bộ là nòng cốt6.

Đây là lần đầu tiên Đảng ta có một sự phát triển lý luận về xây dựng cán bộ cấp chiến lược tương đối chỉnh thể, đầy đủ, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đồng thời, Đảng ta cũng nhận thức rõ rằng: có lúc đường lối cán bộ không theo kịp đường lối chính trị, đường lối chính trị đã thay đổi nhưng đường lối cán bộ vẫn còn cũ, không thay đổi kịp. Có những trường hợp cá biệt chúng ta tuyệt đối hóa quan điểm giai cấp dẫn đến bỏ lọt người tài. Có trường hợp nhấn mạnh cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn, hay như không chú trọng đúng mức yếu tố “đức” trong mối quan hệ với “tài”… Những hạn chế này đã làm cho công tác cán bộ nói chung thiếu hiệu quả.

Nghị quyết số 26 đã đánh giá: “Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế”. Nhận định của Nghị quyết số 26 cho thấy tầm quan trọng của việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) đội ngũ cán bộ cấp chiến lược nói chung cũng như ĐTBD kiến thức nghiệp vụ ngoại giao nhằm giải quyết một vấn đề quan trọng mà Nghị quyết đề cập: nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, cụ thể là kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

Yêu cầu khách quan về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng đối ngoại cho đội ngũ cán bộ, công chức trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng

Thế giới đang thay đổi một cách nhanh chóng và căn bản. Tình hình chính trị, kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, bất ổn đã tác động mạnh đến môi trường an ninh và phát triển của nhiều quốc gia. Trước hết, mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ giữa các nước lớn đang vận động và phát triển ngày càng phức tạp, đa dạng.

Tình hình thế giới và khu vực đã tác động mạnh mẽ đến môi trường đối ngoại của Việt Nam. Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành quả nhất định. Hiện nay, chúng ta có không gian rộng, có đủ điều kiện và dư địa để củng cố và nâng cao vị thế ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã thiết lập được 16 đối tác chiến lược, 10 đối tác toàn diện và 2 đối tác đặc biệt. Tuy nhiên, do tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, khó lường nên môi trường đối ngoại sẽ gặp khó khăn, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định gặp không ít thách thức. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế là “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế”7.

Việc cần phải nâng cao trình độ, năng lực, hiểu biết cho đội ngũ cán bộ các cấp thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, đặc biệt là bồi dưỡng kiến thức ngoại giao cho cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ là rất quan trọng và cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.

Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức kỹ năng đối ngoại cho cán bộ, công chức

Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước về yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) ngang tầm nhiệm vụ trong bối cảnh toàn cầu hóa và chủ động hội nhập quốc tế, các cơ sở ĐTBD CBCC, viên chức đã chú trọng bồi dưỡng kiến thức về hội nhập quốc tế, kỹ năng đối ngoại. Cụ thể là:

Về nội dung các chương trình, tài liệu bồi dưỡng CBCC đã bổ sung các chuyên đề về tính tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh… dưới sự tác động của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và cách mạng công nghiệp qua các thời kỳ, đặc biệt là vài thập kỷ gần đây. Bên cạnh đó, các chuyên đề ĐTBD kiến thức lý luận chính trị, quản lý nhà nước, quốc phòng – an ninh… cho đội ngũ CBCC đã được bổ sung, cập nhật những kinh nghiệm, bài học của các quốc gia trên thế giới và khả năng vận dụng đối với nước ta. Đồng thời, đã có những báo cáo chuyên đề về mô hình, nội dung, phương pháp xử lý các vấn đề kinh tế, thương mại, các vấn đề xã hội, quốc phòng – an ninh và đối ngoại trong chương trình ĐTBD CBCC.

Về đội ngũ giảng viên, báo cáo viên của các chuyên đề thuộc các chương trình ĐTBD CBCC cũng đã được quan tâm, tạo điều kiện đi nghiên cứu, khảo sát, tham gia các hội thảo, tọa đàm khoa học quốc tế… để nâng cao hiểu biết về các vấn đề quốc tế, trên cơ sở đó vận dụng và bổ sung vào các nội dung giảng dạy, nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực được giao. Các cơ sở ĐTBD CBCC có cơ chế khuyến khích đội ngũ giảng viên, báo cáo viên học tập nâng cao khả năng sử dụng ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh phục vụ cho nhiệm vụ chuyên môn và tiếp cận các tri thức của thế giới. Bên cạnh việc nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên, báo cáo viên trong nước, các cơ sở ĐTBD CBCC đã chủ động và ngày càng tăng cường thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia quốc tế tham gia quá trình ĐTBD CBCC.

Về tổ chức các khóa ĐTBD đã có những đổi mới nhất định. Bên cạnh việc cử các đoàn CBCC đi nghiên cứu, khảo sát các vấn đề kinh tế – xã hội, khoa học và công nghệ, giáo dục, văn hóa… ở nước ngoài nhằm cập nhật và nâng cao kiến thức, kinh nghiệm (cả thành công và thất bại) trong việc xử lý, quản lý của chính phủ các quốc gia, các bộ, ngành, cơ quan trung ương và các địa phương đã tổ chức các khóa bồi dưỡng, các hội thảo, tọa đàm khoa học quốc tế với sự tham gia của các chuyên gia hàng đầu thế giới để bồi dưỡng, cập nhật, nâng cao trình độ cho CBCC ngành, địa phương mình, đặc biệt là khả năng vận dụng vào lĩnh vực quản lý được phân công.

Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã xây dựng và tổ chức thực hiện các đề án ĐTBD CBCC theo chức danh lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài. Các đề án, chương trình ĐTBD đã mang lại hiệu quả thiết thực, như: kinh nghiệm, phương pháp xử lý các vấn đề kinh tế, xã hội … của các nước đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tham mưu, quản lý của đội ngũ CBCC nước ta sau khi được ĐTBD. Đồng thời, cũng thông qua các hoạt động ĐTBD kết hợp với các chuyên gia, các cơ quan ĐTBD của nước ngoài mà khả năng sử dụng ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh), hiểu biết văn hóa, phong cách, phương pháp nghiên cứu, làm việc và quản lý của đội ngũ CBCC được nâng cao hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh những sự thay đổi tích cực, công tác ĐTBD kiến thức đối ngoại và hội nhập quốc tế cho đội ngũ CBCC ở nước ta thời gian qua có một số hạn chế, tồn tại, đó là:

Thứ nhất, nội dung, chương trình ĐTBD CBCC mới chỉ dừng ở việc cập nhật, bổ sung các nội dung về hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa… vào các chuyên đề liên quan, chứ chưa hoặc rất ít xây dựng các chuyên đề riêng về lý luận, mô hình quản lý, cơ chế vận hành, công cụ, phương pháp điều chỉnh, điều tiết của Nhà nước, phân tích sự tác động trong phạm vi quốc gia và quốc tế của các lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh… ở các quốc gia trên thế giới. Điều này rất dễ dẫn đến tình trạng, người được ĐTBD không nhận thức đầy đủ, toàn diện cả về lý luận và thực tiễn của các nội dung được ĐTBD và do đó, khi vận dụng vào thực tiễn quản lý ở nước ta hay mắc phải khuynh hướng giáo điều, máy móc, không phát huy tác dụng hoặc kém hiệu quả.

Thứ hai, việc CBCC được cử đi ĐTBD, nghiên cứu khảo sát ở nước ngoài thường được tổ chức cho CBCC của các cơ quan, đơn vị của một ngành hoặc một địa phương và ở các quốc gia khác nhau về trình độ phát triển, về lịch sử – văn hóa, về truyền thống và điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế – xã hội. Vì vậy, CBCC của các đoàn học tập, nghiên cứu, khảo sát khác nhau có cách nhìn, nhận thức khác nhau về cùng một vấn đề. Từ đó, khi đề xuất kiến nghị chính sách hoặc tham mưu chỉ đạo điều hành, thường xảy ra tình trạng không thống nhất, mâu thuẫn, rất khó khăn để ban hành chính sách, hoặc chỉ đạo điều hành hiệu quả. Mặt khác, các cơ quan ở trung ương và các địa phương hằng năm cử nhiều đoàn CBCC đi học tập, nghiên cứu khảo sát ở nước ngoài đến cùng một tổ chức, cơ quan của cùng một quốc gia về cùng một nội dung nhưng thiếu sự chuẩn bị kỹ càng về chủ đề nghiên cứu, khảo sát, không kế thừa kết quả nghiên cứu, khảo sát của các đoàn trước đó, nên hiệu quả của việc nghiên cứu khảo sát rất thấp, trùng lặp, gây lãng phí ngân sách và các nguồn lực liên quan.

Thứ ba, việc bồi dưỡng kiến thức về văn hóa, lịch sử của các dân tộc, quốc gia trên thế giới, phương pháp, phong cách đối thoại, đàm phán, kỹ năng ứng xử, thuyết trình… trong hoạt động đối ngoại chưa được chú trọng. Điều này có thể gây lúng túng, thiếu tự tin của CBCC khi trao đổi, làm việc, sinh hoạt trong môi trường quốc tế, dẫn đến hiệu quả công việc đối ngoại thấp.

Thứ tư, năng lực sử dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh của CBCC rất thấp. Các chương trình ĐTBD ngoại ngữ cho CBCC chưa thiết thực, chưa mang lại kết quả mong muốn. Các CBCC được cử đi ĐTBD ngoại ngữ bằng các nguồn kinh phí khác nhau chủ yếu mới chỉ để đáp ứng yêu cầu về chứng nhận bằng cấp theo quy định về tiêu chuẩn CBCC, chưa thực sự vì mục tiêu tăng cường năng lực để tiếp cận tri thức, văn hóa, luật pháp quốc tế phục vụ cho nhiệm vụ tổ chức quản lý lĩnh vực được phân công. Năng lực sử dụng ngoại ngữ thấp cùng với việc ít được huấn luyện kỹ năng đối ngoại và văn hóa đối ngoại làm hạn chế đáng kể khả năng làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ CBCC nước ta hiện nay.

Thứ năm, cơ sở vật chất kỹ thuật và hình thức ĐTBD kiến thức đối ngoại cho đội ngũ CBCC còn lạc hậu, chưa tạo cơ hội để người học có thể chủ động trong việc tự học, tự nghiên cứu. Các chương trình ĐTBD nói chung, bồi dưỡng trên mạng (bồi dưỡng trực tuyến, bồi dưỡng từ xa) rất ít và chất lượng chưa cao. Cơ sở vật chất, kỹ thuật (và năng lực sử dụng ngoại ngữ nói trên) chưa đáp ứng để CBCC có thể tham gia các khóa ĐTBD, tham gia các hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học quốc tế, trao đổi làm việc với các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và các đối tác thông qua internet… chưa được đáp ứng. Các chương trình ĐTBD CBCC cần kết hợp bồi dưỡng trong nước và ở nước ngoài, đặc biệt là cần có sự tham gia trực tiếp báo cáo chuyên đề, giảng dạy của các nhà khoa học, các chuyên gia quốc tế còn ít, vì vậy, việc cập nhật, bổ sung tri thức và kinh ngiệm quốc tế của các khóa ĐTBD chưa đạt yêu cầu đặt ra.

PGS.TS. Lương Thanh Cường – Phó Giám đốc Học viện Hành chính phát biểu Khai giảng lớp Bồi dưỡng kiến thức về hành chính công cho đội ngũ lãnh đạo quản lý cấp cao của Tổng công ty Bưu điện Việt Nam.

Một số định hướng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ, công chức

Nghị quyết số 26 đã đặt ra mục tiêu cụ thể: xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 – 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

Như vậy, với mục tiêu cụ thể là xây dựng đội ngũ CBCC, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, cần phải xác định rõ đối tượng, nhu cầu; nội dung chương trình và tài liệu; xây dựng đội ngũ giảng viên; phương pháp giảng dạy phù hợp. Yêu cầu tăng cường các chương trình bồi dưỡng kiến thức quan hệ quốc tế, kiến thức đối ngoại, nghiệp vụ ngoại giao và ngoại ngữ dành cho đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

Một là, bồi dưỡng kiến thức quan hệ quốc tế, đối ngoại và nghiệp vụ ngoại giao, ngoại ngữ cần được xác định là một nghiệp vụ quan trọng được triển khai trong tổng thể các chương trình bồi dưỡng dành cho CBCC. Mục tiêu cụ thể Nghị quyết số 26 đòi hỏi quyết tâm chính trị và nhận thức đồng bộ. Đây là một mục tiêu lớn và hoàn toàn phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng của đất nước. Đội ngũ CBCC không chỉ là lực lượng tham gia vào quá trình hoạch định mà còn tham gia vào quá trình triển khai các chính sách hội nhập quốc tế cụ thể. Chính vì vậy, tính khả thi của việc hiện thực hóa mục tiêu nâng cao năng lực của nguồn nhân lực phụ thuộc rất lớn vào nhận thức đối với tầm quan trọng của công tác ĐTBD. Nhiệm vụ này đòi hỏi đẩy mạnh công tác tuyên truyền và quán triệt nghiêm túc Nghị quyết số 26 của Đảng.

Hai là, các chương trình bồi dưỡng trong lĩnh vực đối ngoại dành cho CBCC, nhất là cán bộ cấp chiến lược có thể được điều chỉnh theo các giai đoạn khác nhau. Trong thời gian ngắn hạn, thời lượng của học phần đối ngoại trong các chương trình bồi dưỡng hiện tại có thể được tăng lên. Trong chương trình dành cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược, việc trang bị một hệ thống từ lý luận đến kiến thức quan hệ quốc tế, kiến thức đối ngoại, nghiệp vụ ngoại giao cần được bổ sung.

Về mặt dài hạn, xét trên yêu cầu cấp bách của đất nước trong lĩnh vực hội nhập quốc tế cũng như để thực hiện được mục tiêu 50% cán bộ cấp chiến lược có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, việc xây dựng một chương trình bồi dưỡng riêng về đối ngoại là một giải pháp quan trọng và cấp bách. Do đó, song song với việc điều chỉnh thời lượng, việc cập nhật bổ sung nội dung các chương trình bồi dưỡng đóng vai trò quan trọng nâng cao năng lực hội nhập quốc tế của đội ngũ CBCC. Một số nhóm nội dung có thể được xem xét triển khai trong chương trình bồi dưỡng về đối ngoại và quan hệ quốc tế, như hệ thống lý luận quan hệ quốc tế, kỹ năng hoạch định và phân tích chiến lược, các nghiệp vụ và kỹ năng cần thiết đặt ra từ yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế.

Ba là, việc tăng cường và nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên thực hiện công tác ĐTBD cán bộ cấp chiến lược trong lĩnh vực đối ngoại. Cần kết hợp giữa đội ngũ giảng viên thỉnh giảng và đội ngũ giảng viên cơ hữu trong các cơ sở ĐTBD cán bộ. Đội ngũ giảng viên thỉnh giảng bao gồm các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý là những chủ thể có khả năng cung cấp nhiều kiến thức chuyên sâu và những kinh nghiệm quản lý cho CBCC. Đội ngũ giảng viên cơ hữu là những người có kiến thức nền tảng chuyên sâu và đã gắn bó lâu dài với quá trình ĐTBD. Do đó, sự kết hợp này sẽ cung cấp cho CBCC những kiến thức lý luận và kiến thức thực tiễn phong phú, hài hòa hơn, là yếu tố then chốt để phát triển năng lực cho CBCC. Cần chú trọng và bổ sung các nguồn lực cho việc thu hút các chuyên gia quốc tế tham gia trực tiếp vào quá trình ĐTBD CBCC.

Bốn là, đổi mới phương pháp ĐTBD, trong đó, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các học viên, kết hợp hình thức ĐTBD truyền thống gắn với đổi mới phương pháp và việc xây dựng, phát triển các hình thức ĐTBD dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin và internet; xây dựng văn hóa tự học tập, nghiên cứu, tăng cường điều kiện và môi trường để CBCC tự học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ.

Ứng dụng công nghệ hiện đại trong ĐTBD cán bộ cấp chiến lược do đặc thù giới hạn về không gian và thời gian của nhóm đối tượng này. ĐTBD trực tuyến thông qua “lớp học ảo”, mô phỏng, số hóa bài giảng cần trở thành xu hướng ĐTBD CBCC trong tương lai gần. Hiện nay, công tác ĐTBD CBCC ngày càng đòi hỏi tính chuyên sâu để nâng cao kiến thức, phát triển kỹ năng, rèn luyện thái độ công vụ phù hợp; nội dung ĐTBD CBCC cũng không ngừng tăng lên về khối lượng kiến thức, kỹ năng, trong khi đó các chương trình ĐTBD bị hạn chế về thời gian, nguồn lực tài chính và nhân lực. Vì vậy, ĐTBD trực tuyến chính là chìa khóa quan trọng để giải quyết mâu thuẫn đó.

Năm là, việc tăng cường giao lưu, trao đổi hợp tác giữa các cơ quan phụ trách công tác bồi dưỡng và đơn vị chuyên trách đối ngoại có thể đóng góp vào việc thay đổi, cập nhật chương trình, tăng cường năng lực đội ngũ giảng viên, báo cáo viên. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bồi dưỡng về đối ngoại cũng là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy hiệu quả của các chương trình theo hướng hiện đại hóa và cập nhật.

Công tác ĐTBD kiến thức quan hệ quốc tế, kiến thức đối ngoại và nghiệp vụ ngoại giao là một nhiệm vụ bắt buộc cần được triển khai đồng bộ và mạnh mẽ. Để thực hiện được nhiệm vụ này, việc xây dựng hệ thống các chính sách hỗ trợ cũng như triển khai các hoạt động cụ thể một cách đồng bộ, toàn diện có lộ trình cụ thể, có chế tài khuyến khích và xử lý vi phạm phù hợp để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả của nhiệm vụ quan trọng này./.

Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5, 6. Văn phòng Trung ương Đảng. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. H. 2018, tr. 45; 47; 54; 55 và 56.
7. Nghị quyết số 22-NQ/TƯ, ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. Văn phòng Trung ương Đảng, 2016.
TS. Đặng Xuân Hoan - Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia