19/04/2024 lúc 08:09 (GMT+7)
Breaking News

Cần kiểm soát chặt chẽ nợ công

VNHN - Nợ công là nguồn lực bổ sung, bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước (NSNN), nhưng mặt khác có khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến an toàn nợ và an toàn tài chính quốc gia khi vượt giới hạn khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương. Do vậy, kiểm soát chặt chẽ nợ công có vai trò quan trọng trong việc giữ vững ổn định nền tài chính quốc gia.

VNHN - Nợ công là nguồn lực bổ sung, bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước (NSNN), nhưng mặt khác có khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến an toàn nợ và an toàn tài chính quốc gia khi vượt giới hạn khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương. Do vậy, kiểm soát chặt chẽ nợ công có vai trò quan trọng trong việc giữ vững ổn định nền tài chính quốc gia.

Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, công tác quản lý nợ công trong những năm gần đây đã đạt nhiều kết quả tích cực, đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), ổn định vĩ mô và tăng cường hệ số tín nhiệm quốc gia. Thực tế, Việt Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ huy động vốn vay với chi phí thấp gắn liền với mức độ rủi ro hợp lý để bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển KT-XH, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu trong nước.

Việc kiểm soát hiệu quả, đảm bảo các chỉ tiêu về nợ nằm trong giới hạn cho phép; với chủ trương thực thi chính sách tài khoá thận trọng, tốc độ tăng quy mô nợ công đã giảm từ mức 18,1% giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn 8,2%/năm trong giai đoạn 2016 - 2018; nợ công so với GDP giảm từ mức 63,7% vào năm 2016 xuống còn 58,4% tính đến cuối năm 2018. Qua các đợt đánh giá bền vững nợ hàng năm, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đánh giá cao việc triển khai hiệu quả cam kết củng cố tài khóa và biện pháp tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ nợ công của Chính phủ Việt Nam.

Bộ Tài chính sẽ tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ.

Các tổ chức này đánh giá, “nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam hiện ở mức bền vững”. Yếu tố này cũng góp phần quan trọng để các tổ chức xếp hạng quốc tế liên tục nâng hạng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam trong thời gian gần đây. Theo ông Võ Hữu Hiển, Phó Cục trưởng Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), thời gian qua, nhằm tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nợ công theo đúng định hướng của Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ, Bộ Tài chính đã giảm dần tỷ trọng nợ nước ngoài, tập trung huy động vốn trong nước với lãi suất hợp lý, phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) kỳ hạn dài để giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn.

Nhờ đó, thúc đẩy phát triển thị trường TPCP trong nước thông qua đa dạng hóa các sản phẩm và mở rộng cơ sở nhà đầu tư dài hạn, đồng thời siết chặt việc cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới, hạn chế rủi ro nghĩa vụ nợ dự phòng cho NSNN. Mặt khác, cơ cấu nợ Chính phủ có chuyển biến khả quan theo hướng giảm dần sự phụ thuộc vào các khoản vay nước ngoài. Tỷ trọng dư nợ trong nước hiện nay chiếm khoảng 62% nợ Chính phủ (so với tỷ trọng 40% vào năm 2010). Kỳ hạn phát hành TPCP cũng được kéo dài. Từ đầu năm 2019 đến nay, kỳ hạn phát hành TPCP bình quân duy trì ở mức cao 13,3 năm, tăng mạnh so mức bình quân 4,8 năm trong giai đoạn 2011 – 2015.

Sơ đồ về nợ công.

Lãi suất phát hành giảm đáng kể, góp phần giảm chi phí huy động vốn cho NSNN. Lãi suất phát hành TPCP trong nước giảm từ mức bình quân 12%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn khoảng 4,95%/năm từ đầu năm đến nay. Cơ cấu nhà đầu tư có sự cải thiện căn bản. Đến nay, tỷ lệ nắm giữ TPCP của các nhà đầu tư là tổ chức tài chính phi ngân hàng tiếp tục tăng lên, đạt khoảng 53%, tỷ lệ nắm giữ của các ngân hàng thương mại đạt khoảng 47%. Trong những năm vừa qua, Chính phủ luôn chủ động bố trí đủ nguồn trong dự toán cân đối ngân sách để trả nợ trong mức đã được Quốc hội phê duyệt, theo đúng cam kết với các nhà đầu tư, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn ảnh hưởng đến uy tín của Chính phủ và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ so thu NSNN được duy trì ở mức hợp lý. Đến cuối năm 2018 đạt khoảng 15,9%, thấp hơn ngưỡng an toàn được Quốc hội cho phép là 25%... Tuy vậy, cùng với ảnh hưởng của việc Việt Nam tốt nghiệp vốn vay ưu đãi dành cho các nước nghèo và kém phát triển của Hiệp hội Phát triển quốc tế thuộc Ngân hàng Thế giới (IDA) kể từ năm 2017, các chỉ tiêu chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngoài, có xu hướng kém thuận lợi hơn trước đây. Trong bối cảnh cân đối ngân sách cho chi trả nợ còn nhiều khó khăn, đồng thời để phòng ngừa rủi ro thanh khoản cho danh mục nợ công, trong thời gian tới Bộ Tài chính sẽ tiếp tục theo dõi diễn biến thị trường để triển khai các phương án mua lại, hoán đổi trái phiếu chính phủ đáo hạn trong năm 2020 và 2021 tại các thời điểm trung - dài hạn.

Nợ công Việt Nam trên thế giới.

Ông Võ Hữu Hiển cho biết, việc quản lý nợ công và tái cơ cấu nợ công từ nay đến cuối giai đoạn 2020 và giai đoạn 5 năm tiếp theo cần được tiếp tục triển khai đồng bộ với việc thực hiện các mục tiêu, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh; trong đó, có cơ cấu lại NSNN, đầu tư công, khu vực doanh nghiệp nhà nước, hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (TCTD). Bộ sẽ tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ.

Việc nghiên cứu, đề xuất các ngưỡng an toàn nợ cho giai đoạn 5 năm tới cần được đánh giá hết sức thận trọng, không chỉ tập trung vào quy mô nợ so GDP mà còn phải phù hợp khả năng chi trả nợ của NSNN, ưu tiên tạo thêm dư địa để bố trí nguồn lực ngân sách cho đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, Bộ thực hiện cơ cấu lại danh mục nợ công thông qua các nghiệp vụ quản lý nợ chủ động; thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước, thị trường TPCP cả về chiều sâu và chiều rộng theo hướng đa dạng hóa công cụ nợ và mở rộng cơ sở nhà đầu tư.

Biểu đồ của các khoản nợ.

Đối với vốn vay nước ngoài, Bộ sẽ thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách lớn trong việc huy động, quản lý và sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi, tập trung cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên. Đặc biệt, Bộ Tài chính sẽ kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của cơ quan địa phương, hoạt động vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp và TCTD theo hình thức tự vay, tự trả, đặc biệt là các khoản nợ ngắn hạn.