25/04/2024 lúc 14:07 (GMT+7)
Breaking News

An sinh xã hội - mục tiêu, động lực để phát triển nhanh và bền vững

An sinh xã hội là một trong những nội dung được đề cập toàn diện, xuyên suốt trong hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng ta. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục xác định đây là một lĩnh vực quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 

An sinh xã hội là một trong những nội dung được đề cập toàn diện, xuyên suốt trong hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng ta. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục xác định đây là một lĩnh vực quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 

Những nội dung liên quan đến an sinh xã hội (ASXH) được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là:

Thứ nhất, xây dựng các chính sách xã hội bảo đảm tính bền vững và phát triển phù hợp, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển.

Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, động lực để phát triển nhanh và bền vững trong các giai đoạn phát triển của đất nước

Thực tế đã chứng minh, không thể có ASXH và phúc lợi xã hội đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế thiếu hụt, hệ thống chính sách xã hội thiếu bền vững và phát triển không phù hợp. Ngược lại, không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội chưa xây dựng được hệ thống chính sách xã hội bảo đảm tính bền vững và phát triển phù hợp.

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách ASXH đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội. Hệ thống pháp luật và chính sách phát triển ASXH ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Diện thụ hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực cho ASXH của đất nước ngày càng lớn, được tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước và huy động từ nhiều nguồn lực trong xã hội. Một số lĩnh vực đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhất là giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, ưu đãi người có công, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn... Nước ta được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ.

Tuy nhiên, thực hiện ASXH ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém kéo dài như: tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỉ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao. Mức trợ cấp ưu đãi người có công còn thấp. Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ….

Từ thực trạng trên, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội... xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp”(1). Như vậy, Đảng ta luôn coi chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, động lực để phát triển nhanh và bền vững trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân và bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ.

Theo đó, trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách xã hội phải bảo đảm tính đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên thực hiện tốt chính sách đối với người có công; bảo đảm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn, những đối tượng yếu thế. Xây dựng chính sách xã hội, trong đó có chính sách ASXH phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối các nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; chú trọng ưu tiên những người có công, những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và truyền thống tốt đẹp, tương thân, tương ái của dân tộc. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội. Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh sản xuất kinh doanh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ người dân có việc làm, tăng thu nhập là giải pháp xoá đói giảm nghèo và bảo đảm ASXH tích cực, hiệu quả, bền vững. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia.

Nhà nước tạo môi trường điều kiện thuận lợi để mọi người dân phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, khắc phục sự ỷ lại vào Nhà nước, nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển bảo đảm ASXH phù hợp, có chương trình hành động cụ thể, khả thi và tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, tạo đồng thuận cao trong xã hội. Xây dựng hệ thống ASXH phải bảo đảm tính đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng trong quá trình thực hiện an sinh xã hội và cơ hội phát triển của người dân. Không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, trước hết là các dịch vụ công cộng cơ bản, bảo đảm công bằng, bình đẳng cho mọi người.

Đẩy mạnh và tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách ASXH. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm mở rộng sự tham gia của mọi chủ thể vào cung cấp ngày càng nhiều hơn với chất lượng tốt hơn các dịch vụ công cộng. Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người đề cao trách nhiệm, nâng cao năng lực và tham gia thiết thực vào việc bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội. Khuyến khích phát triển các mô hình ASXH tự nguyện ở cộng đồng, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng theo cơ chế phi lợi nhuận và các hình thức hợp tác công - tư. Đẩy mạnh các cuộc vận động xã hội như: ngày vì người nghèo, phong trào tương thân tương ái, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết dân tộc... 

Thứ hai, hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp và chính sách đối với người có công.

Pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng bên cạnh tính chính trị, kinh tế, xã hội còn mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, giáo dục ý thức cho thế hệ trẻ. Làm tốt chính sách đối với người có công sẽ góp phần vào sự ổn định xã hội, giữ vững thể chế, góp phần từng bước nâng cao đời sống người có công và thân nhân của họ.

Với trách nhiệm và nghĩa tình sâu nặng, chính sách đối với người có công với cách mạng đã được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và từng bước được hoàn thiện.

Thời gian qua, nhất là từ khi thực hiện Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng, chính sách  đối với người có công đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền tích cực triển khai thực hiện, đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống pháp luật, chính sách về người có công với cách mạng từng bước được hoàn thiện; đối tượng chính sách được mở rộng; việc xây dựng, nâng cấp, tu bổ mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công liệt sĩ được quan tâm đầu tư; công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ được triển khai tích cực. Phong trào “Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng”, ủng hộ quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” ngày càng phát triển sâu rộng, được xã hội đồng tình, hưởng ứng; đời sống của gia đình người có công với cách mạng không ngừng được cải thiện; nhiều thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ đã có ý chí vươn lên, tiếp tục có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác người có công với cách mạng vẫn còn những hạn chế nhất định. Việc nghiên cứu xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện chính sách chưa theo kịp với các yêu cầu của thực tiễn quản lý nhà nước; sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ; công tác kiểm tra, thanh tra chưa bao phủ kịp thời, tình trạng khai man hồ sơ, trục lợi chính sách vẫn còn xảy ra, gây bức xúc trong xã hội; đời sống của một bộ phận gia đình người có công với cách mạng còn khó khăn...

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú”(2).

Để thực hiện đầy đủ và có hiệu quả chính sách đối với người có công theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, trước hết, các cơ quan chức năng cần nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác này. Tập trung nghiên cứu, tham mưu đề xuất ban hành Pháp lệnh thay thế Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng hiện hành và các văn bản hướng dẫn thiết thực, hiệu quả. Tiếp tục rà soát, xem xét, giải quyết hồ sơ đề nghị xác nhận người có công với cách mạng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương trong thực hiện công tác người có công với cách mạng. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức, trách nhiệm của những người làm công tác này.

Thực hiện nghiêm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và kiên quyết xử lý các hành vi, vi phạm trong thực hiện luật pháp, chính sách đối với người có công.

Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương hỗ trợ giải quyết cơ bản về nhà ở đối với gia đình người có công đang gặp khó khăn về nhà ở. Xây dựng và triển khai thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp đối với người có công và thân nhân của họ về phát triển sản xuất, việc làm, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là y tế, giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng; tạo điều kiện vay vốn, hỗ trợ các cơ sở sản xuất kinh doanh của thương bệnh binh và người có công với cách mạng.

Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa với nhiều hình thức phong phú, thiết thực hơn. Chấn chỉnh, khắc phục có hiệu quả những hành vi tiêu cực trong quá trình thực hiện chính sách người có công.

Thứ ba, cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến ASXH và các cân đối lớn của nền kinh tế, thị trường lao động và đời sống người hưởng lương. Trả lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội.

Trước yêu cầu phát triển và trên cơ sở kế thừa các quan điểm về cải cách tiền lương của Đảng từ Đại hội VI đến nay, Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định: “Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả”(3).

Theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, việc cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương hiện hành; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nguồn lực của đất nước.

Cải cách chính sách tiền lương là yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy cải cách hành chính; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Thứ tư, chú trọng nâng cao phúc lợian sinh xã hội; tiếp tục bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân; đổi mới chính sách lao động, việc làm.

Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính sách phát triển hệ thống ASXH và phúc lợi xã hội được hoàn thiện dần qua các kỳ Đại hội của Đảng. Theo đó, chính sách bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội của Đảng và Nhà nước ta đã mang lại những thành công lớn, nhất là trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Giảm nghèo nhanh, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Hệ thống tổ chức y tế được kiện toàn, năng lực, chất lượng khám, chữa bệnh được cải thiện. Thời gian qua, với sự tham gia của khu vực tư nhân trong cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, đã có sự cạnh tranh về chất lượng khám chữa bệnh và nhân lực chất lượng cao. Các cơ sở y tế, giáo dục tăng cường đầu tư thiết bị máy móc, nâng cao chất lượng phục vụ. Ngành giáo dục cũng đang chứng kiến sự thay đổi lớn về chất, chuyển dịch theo hướng tích cực. Giáo dục vùng sâu, vùng xa và giáo dục mầm non được quan tâm đầu tư. Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học đã bám sát nhu cầu thực tế, từng bước nâng cao chất lượng. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp của Việt Nam có nhiều đổi mới trong cách tiếp cận và triển khai các chương trình bao phủ bảo hiểm.

Năm 2010, cả nước có 7,8 triệu lượt người được hưởng bảo hiểm xã hội, đến tháng 9/2020, con số này đã tăng lên hơn 15,5 triệu người, tương ứng 31,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; có gần 13 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp (đạt 26,2% lực lượng lao động trong độ tuổi) và hơn 86,7 triệu người tham gia bảo hiểm y tế (đạt tỷ lệ bao phủ 89,6% dân số).

Đặc biệt, trong quá trình ứng phó đại dịch COVID-19, Đảng, Nhà nước ta đã kiên định mục tiêu bảo vệ quyền con người, bảo hộ công dân, bảo đảm sức khỏe và tính mạng của nhân dân với những chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, nhân văn, thể hiện tính ưu việt của xã hội ta. Trước bối cảnh dịch bệnh bùng phát, kinh tế gặp nhiều khó khăn, Chính phủ Việt Nam đã kịp thời triển khai nhiều biện pháp bảo đảm ASXH như hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch, hỗ trợ chế độ bảo hiểm thất nghiệp, tổ chức các chuyến bay đưa công dân Việt Nam có hoàn cảnh khó khăn từ các quốc gia và vùng lãnh thổ về nước...

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, việc bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội ở nước ta vẫn còn những “khoảng trống”, đó là số hộ cận nghèo còn nhiều; đời sống của một bộ phận dân cư còn nhiều khó khăn; khoảng cách thu nhập của các tầng lớp dân cư còn lớn. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hoá và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực cho ASXH và phúc lợi xã hội còn phụ thuộc chủ yếu vào ngân sách nhà nước, diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung chưa cao, vẫn còn không ít tiêu cực, phiền hà...

Bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng đời sống người dân, từng bước thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ; có ý nghĩa rất quan trọng với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước.

Từ thực tế trên, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, tiếp tục bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm…”(4). Theo đó, trong thời gian tới, cùng với thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng và Nhà nước cần chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân. Cải thiện điều kiện nhà ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị, từng bước giải quyết nhu cầu về nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp và học sinh, sinh viên. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030. Tập trung khắc phục những khó khăn về đất đai, quy hoạch, vốn, thủ tục, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh doanh tham gia thực hiện các dự án phát triển nhà ở xã hội.

Đồng thời chú trọng phát triển hệ thống ASXH toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế. Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ - bền vững. Cần điều chỉnh chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ cơ bản cho người dân.

Hệ thống ASXH và phúc lợi xã hội phải bảo đảm chủ động, tích cực và có tính xã hội hoá cao. Theo đó, cùng với tăng cường vai trò của Nhà nước, phải huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao trách nhiệm và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng.

Bảo đảm phúc lợi xã hội, ASXH gắn với đẩy mạnh phát triển các dịch vụ xã hội phải vừa trợ giúp mọi người dân được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản về khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện, nước sinh hoạt, văn hoá, thông tin và truyền thông, bảo đảm vệ sinh môi trường, đi lại…, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của nhân dân đối với các dịch vụ này. Cần đẩy mạnh phát triển các quỹ phúc lợi xã hội ở cả 3 cấp độ: quỹ tập trung của Nhà nước; quỹ của các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh; quỹ của các tập thể và cộng đồng. Quy định công khai, minh bạch mức thụ hưởng các phúc lợi xã hội và dịch vụ cơ bản tối thiểu của người dân; khắc phục các tiêu cực, phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ này; có chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng khó khăn.

Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước; củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội; khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão.

Nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, triển khai có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2020 - 2030, bảo đảm an sinh xã hội đối với các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương.

Trong hoạch định và triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết của các cấp ủy đảng cũng như trong việc xây dựng pháp luật, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cần chú trọng mục tiêu bảo đảm ASXH, nâng cao mức thụ hưởng của nhân dân, bảo đảm công bằng trong phân chia nguồn lực. Tránh để tình trạng bất bình đẳng lớn về ASXH, phúc lợi xã hội giữa các địa phương có nguồn thu cao, chủ động ngân sách với các địa phương phụ thuộc ngân sách nhà nước. Thực hiện và giám sát việc thực hiện công khai, minh bạch các chế độ, chính sách về ASXH, phúc lợi xã hội ở cơ sở.

Tiếp tục đổi mới chính sách lao động, việc làm hướng đến việc làm bền vững. Phát triển thị trường lao động lành mạnh, đồng bộ, hiện đại và hội nhập. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, chất lượng cao; nâng cao vai trò, trách nhiệm của doanh nghiệp trong đào tạo. Tăng cường xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Hoàn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp một cách thiết thực, hiệu quả.

Ngoài những nội dung cơ bản trên, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng còn đề cập khá cụ thể đến những vấn đề như: đổi mới chính sách bảo hiểm thất nghiệp; giải quyết việc làm cho lao động khu vực phi chính thức; thực hiện các chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe và tầm vóc của người dân... Qua đó, xác định đúng vị trí, vai trò của ASXH đối với phát triển đất nước, phù hợp với thực tiễn và tình hình mới, là cơ sở và điều kiện để người dân được “thụ hưởng” nhiều hơn thành quả từ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta./.

(1) (2) (3) (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.147-148, 148-149, 149, 149.

Trung tá, ThS. Nguyễn Ngọc Hương
Trung tá, ThS. Nguyễn Văn Sơn

Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng