24/04/2024 lúc 16:47 (GMT+7)
Breaking News

Cơ hội đi học ở Việt Nam: Từ cải cách giáo dục đến đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

VNHNO - Việc thực hiện chính sách đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo đòi hỏi phải tiếp tục củng cố, phát huy thành tựu phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở và tiến tới phổ cập trung học phổ thông. Tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa trong chính sách, chiến lược giáo dục cần được thực hiện thông qua việc củng cố, duy trì và mở rộng các cơ hội giáo dục từ mầm non đến đại học.

VNHNO - Việc thực hiện chính sách đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo đòi hỏi phải tiếp tục củng cố, phát huy thành tựu phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở và tiến tới phổ cập trung học phổ thông. Tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa trong chính sách, chiến lược giáo dục cần được thực hiện thông qua việc củng cố, duy trì và mở rộng các cơ hội giáo dục từ mầm non đến đại học.

1. Chính sách cải cách giáo dục và cơ hội đi học đúng tuổi

a. Chính sách cải cách giáo dục

Cải cách giáo dục Việt Nam khởi đầu vào năm 1979 với sự kiện Bộ Chính trị khóa IV ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 11-1-1979 về cải cách giáo dục nhằm đáp ứng các yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn cả nước xây dựng XHCN.

Cải cách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1979 đến nay có nhiều giá trị lý luận và thực tiễn, cụ thể: Thứ nhất là mục tiêu mở rộng cơ hội đi học đúng tuổi từ mầm non đến trung học phổ thông. Nghị quyết này ghi rõ: “Từng bước thu hút tất cả các trẻ em trong độ tuổi vào nhà trẻ và lớp mẫu giáo”, “Trước mắt, hoàn thành việc phổ cập bậc phổ thông cơ sở, đồng thời từng bước thực hiện việc phổ cập bậc phổ thông trung học bằng nhiều hình thức”. Thứ hai là nêu rõ nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Thứ ba là nhấn mạnh một trong số các nhiệm vụ, biện pháp chủ yếu là đẩy mạnh nghiên cứu khoa học giáo dục với nội dung quan trọng là phải kết hợp những thành tựu mới nhất của khoa học giáo dục thế giới với những thành tựu và kinh nghiệm tiên tiến của giáo dục Việt Nam.

Năm 1986, Việt Nam thực hiện cải cách giáo dục với một số điều chỉnh theo đường lối đổi mới của Đảng vạch ra tại Đại hội VI. Trong đó nổi bật là mục tiêu hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học cho trẻ em, phổ cập trung học cơ sở ở những nơi có điều kiện và từng bước mở rộng giáo dục phổ thông trung học bằng nhiều hình thức.

Năm 1991, đường lối đổi mới của Đảng xác định, giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, “Giáo dục là một động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế, hiện đại hóa đất nước. Đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư có lợi nhất”. Về cơ hội đi học đúng tuổi, chính sách cải cách giáo dục tiếp tục mục tiêu phổ cập tiểu học trên phạm vi cả nước và phổ cập trung học cơ sở ở những nơi phát triển mạnh kinh tế hàng hóa; đồng thời “mở rộng một cách hợp lý quy mô đào tạo đại học”.

Năm 1993, để phát huy thành tựu cải cách giáo dục, đồng thời khắc phục những yếu kém của nền giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 14-1-1993 về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Liên quan đến cơ hội đi học, quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục là “Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức”.

Mục tiêu mở rộng cơ hội đi học cho dân số trong độ tuổi đến trường được xác định rõ: “Phấn đấu đến năm 2000..., hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học... Đẩy mạnh thực hiện phổ cập giáo dục cấp II, nhất là ở các đô thị. Mở rộng giáo dục nghề nghiệp..., Mở rộng hợp lý quy mô đào tạo đại học. Phát triển hệ cao học, đẩy mạnh đào tạo nghiên cứu sinh”. Trong đó “Cho phép mở trường lớp tư thục ở giáo dục mầm non, giáo dục chuyên nghiệp (bao gồm dạy nghề và trung học chuyên nghiệp), giáo dục đại học. Không mở trường lớp tư thục ở giáo dục phổ thông”. Về phát huy vai trò động lực của khoa học - công nghệ nói chung và khoa học giáo dục nói riêng trong đổi mới giáo dục, Nghị quyết số 04-NQ/TW xác định rõ: “Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, nghiên cứu những vấn đề về khoa học giáo dục phục vụ cho mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục”.

Năm 1996, Nghị quyết số 2-NQ/TW chỉ rõ vị trí và vai trò động lực phát triển của giáo dục trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đó là “Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo”. Tuy nhiên, Nghị quyết chỉ rõ đến năm 1996, vẫn chưa phổ cập được giáo dục tiểu học, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt dưới 10% và mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu phát triển quy mô giáo dục với nâng cao chất lượng giáo dục.

Nghị quyết đề ra những định hướng lớn cho phát triển giáo dục, đó là: thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển; Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả giáo dục. Đối với mục tiêu mở rộng cơ hội đi học, Nghị quyết đề rõ mục tiêu cụ thể đến năm 2000 phổ cập giáo dục bậc tiểu học, đến năm 2010 phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đến năm 2020 phổ cập trung học phổ thông và xây dựng, phát triển bậc học mầm non cho hầu hết các trẻ em trong độ tuổi, có nghĩa là phổ cập bậc học mầm non. Để thực hiện các mục tiêu và định hướng phát triển giáo dục, giải pháp chủ yếu được đặt ra là đổi mới quản lý giáo dục, trong đó cần “Coi trọng hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học giáo dục, nhằm giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong giáo dục và phổ biến các tri thức khoa học giáo dục thường thức đến các gia đình”.

b. Cơ hội đi học đúng tuổi trước đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

Tỷ lệ đi học đúng tuổi là tiêu chuẩn, tiêu chí, thước đo phản ánh chính xác nhất về cơ hội đi học nói riêng và cơ hội giáo dục nói chung của dân số trong độ tuổi đi học. Căn cứ vào tỷ lệ đi học đúng tuổi các cấp bậc giáo dục từ mầm non đến đại học có thể đánh giá được tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo dục, đào tạo nói riêng và trình độ phát triển xã hội nói chung của cộng đồng, dân tộc, quốc gia.

Những thành quả của đổi mới kinh tế - xã hội nói chung và cải cách giáo dục giáo dục nói riêng thể hiện rõ ở mức độ mở rộng liên tục cơ hội đi học đúng tuổi các cấp bậc giáo dục trong thời kỳ 1993-2009. Tỷ lệ đi học đúng tuổi các cấp bậc giáo dục từ tiểu học đến đại học tăng mạnh từ năm 1993 đến năm 1998 và năm 2009 (Xem Bảng 1).

Cơ hội đi học đúng tuổi bậc tiểu học tăng từ 78% (1993) lên 92,6% (1998) và 95,5% (2009). Như vậy, đến năm 1998, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập tiểu học với tỷ lệ đi học đúng tuổi đạt trên 95%.

Cơ hội đi học đúng tuổi bậc trung học cơ sở chỉ đạt trên 1/3 (36%) dân số trẻ em trong độ tuổi trung học cơ sở vào năm 1993, nhưng đến năm 2009 tỷ lệ này đã tăng hơn gấp đôi và đạt mức “cơ bản phổ cập trung học cơ sở” với tỷ lệ 82,6% đi học đúng tuổi.

Cơ hội đi học đúng tuổi trung học phổ thông tăng mạnh, từ 11% (1993) lên gần 57% (2009). Đây là tốc độ tăng trưởng nhanh về quy mô khi xuất phát điểm thấp. Nhưng theo quy luật, tốc độ tăng về quy mô sẽ giảm dần nếu như không tập trung đầu tư mạnh cho giáo dục phổ thông. Do vậy, để hoàn thành mục tiêu phổ cập bậc trung học phổ thông với tỷ lệ 80% đi học đúng tuổi bậc học này vào năm 2020 như đã được xác định trong Nghị quyết số 2-NQ/TW (1996), Việt Nam cần đầu tư mạnh cho giáo dục nói chung và trung học phổ thông nói riêng.

Cơ hội đi học đại học tăng mạnh nhất nhưng nhìn chung vẫn còn ít và chỉ đạt gần 10% vào năm 2009. Giáo dục đại học của Việt Nam về cơ bản vẫn là giáo dục tinh hoa với nghĩa là cơ hội đi học đại học chỉ dành cho một tỷ lệ rất ít (10%) dân số trong độ tuổi đi học đại học. 

Trong thời kỳ cải cách giáo dục (1993 - 2009), cơ hội đi học được mở rộng và được phân bổ cho tất cả các nhóm xã hội, nhờ vậy đã giảm bớt phân hóa xã hội, bất bình đẳng xã hội về cơ hội giáo dục. Điều này thể hiện rõ qua tỷ lệ đi học đúng tuổi các cấp bậc giáo dục đều tăng ở tất cả các nhóm dân số trong độ tuổi đến trường, ở tất cả các nhóm thu nhập, gồm nhóm nghèo, nhóm gần nghèo, nhóm trung bình, nhóm khá và nhóm giàu trên phạm vi cả nước (Bảng 1).

Tỷ lệ đi học đúng tuổi của các nhóm xã hội được mở rộng trong suốt thời kỳ 1993- 2009, đồng thời, mức độ phân hóa giàu nghèo trong tỷ lệ đi học đúng tuổi các cấp bậc giáo dục phổ thông đều giảm. Đến năm 2009, mức phân hóa giàu nghèo trong tỷ lệ đi học đúng tuổi tiểu học giảm còn 1,1 lần so với 1,3 lần năm 1993. Tuy nhiên, đến năm 2009, phân hóa giàu nghèo về cơ hội đến trường trung học phổ thông mặc dù đã giảm nhanh, nhưng vẫn còn ở mức 3,6 lần với nghĩa là cứ 1 trẻ em xuất thân từ nhóm 20% gia đình nghèo nhất đi học thì có tới 3-4 trẻ em xuất thân từ nhóm 20% gia đình giàu nhất đi học.

Cơ hội đi học đại học mở rộng nhanh nhưng vẫn là “giáo dục tinh hoa” với tỷ lệ đi học đúng tuổi thấp, dưới 10%. Mức độ phân hóa giàu nghèo về cơ hội đi học đại học không giảm mà tăng trong giai đoạn 1998 - 2009, từ 61,2 lần (1998) lên 87,7 lần (2009); có nghĩa là đến năm 2009 cứ một người xuất thân từ nhóm 20% gia đình nghèo nhất đến trường đại học thì có 87-88 người xuất thân từ nhóm 20% gia đình giàu nhất đến trường đại học.

Nhờ hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học nên tỷ lệ đi học đúng tuổi tiểu học chênh lệch không nhiều giữa các dân tộc (Bảng 2). Tuy nhiên, mức chênh lệch, thậm chí là bất bình đẳng về cơ hội đi học giữa các dân tộc tăng dần theo cấp học từ trung học cơ sở lên trung học phổ thông và đạt mức bất bình đẳng cao nhất ở bậc cao đẳng, đại học (Bảng 2). Thí dụ, tỷ lệ đi học cao đẳng, đại học của người Kinh là 18,8%, nhiều gấp 45 lần so với tỷ lệ 0,4% đi học của người Mông năm 2009. Như vậy cứ 1 người Mông đến trường cao đẳng, đại học thì có 45 người Kinh đến trường cao đẳng, đại học.

Thực trạng trên đặt ra vấn đề cần lựa chọn chính sách giáo dục tập trung vào nâng cao chất lượng giáo dục hay mở rộng cơ hội đi học? Từ góc độ lý luận khoa học giáo dục và thực tiễn quy luật “lượng đổi chất đổi” có thể thấy tập trung vào mở rộng cơ hội đi học mới trực tiếp thực hiện được tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và nâng cao được chất lượng, hiệu quả giáo dục. Giải pháp chính sách là cần đầu tư mạnh cho giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông gồm cả tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông để củng cố và hoàn thiện phổ cập giáo dục phổ thông và phổ cập giáo dục mầm non, đồng thời giảm đầu tư cho giáo dục đại học.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và chương trình, kế hoạch thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

a. Mục tiêu

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 14/11/2013 cụ thể hóa quan điểm của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và xác định rõ mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể và các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện các mục tiêu đặt ra. Trong đó mục tiêu về chất lượng, hiệu quả, tính chất và tầm vóc của giáo dục Việt Nam   là “tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo”; “giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.

Trong các mục tiêu cụ thể đối với giáo dục mầm non cần đặc biệt chú trọng mục tiêu: “Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020... Phát triển giáo dục mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục”.

Trong các mục tiêu cụ thể đối với giáo dục phổ thông, cần đặc biệt chú ý đến mục tiêu như “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở;... Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.

Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương”.

b. Nhiệm vụ và giải pháp

Để thực hiện các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, Nghị quyết số 29-NQ/TW/2013 xác định rõ 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp. Các nhóm nhiệm vụ và giải pháp này bao quát các lĩnh vực từ tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với giáo dục đến đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ các yếu tố của giáo dục, coi trọng phẩm chất, năng lực của người học, hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập, tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ đến chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế trong giáo dục.

Cần thực hiện đồng bộ 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 29. Tuy nhiên, cần chú trọng nhóm nhiệm vụ và giải pháp đặc trưng cho sự phát triển giáo dục trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đó là nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ 8 về tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ: “8. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý”.

Nghị quyết 29 xác định rõ nhiệm vụ và giải pháp khoa học - công nghệ gồm 4 nội dung cụ thể cần được triển khai là: (i) quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học quản lý, tập trung đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục, triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo dục; (ii) tăng cường nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ ở các cơ sở giáo dục đại học; gắn đào tạo, nghiên cứu với sản xuất kinh doanh; đầu tư phát triển khoa học cơ bản, chuyên ngành trong một số cơ sở giáo dục đại học; khuyến khích người học nghiên cứu khoa học; (iii) khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ; (iv) ưu tiên đầu tư phát triển một số trường đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực.

c. Chương trình hành động

Để thực hiện Nghị quyết 29, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động kèm theo Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 9/6/2014, xác định 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, về cơ bản, tương ứng với 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp nêu trong Nghị quyết 29, tuy nhiên, có thể phát hiện một số khác biệt về số thứ tự và các nội dung cụ thể. Ví dụ: nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ 8 trong Nghị quyết 29 có tên đầy đủ là “8. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý”.

Nhưng trong Chương trình hành động, nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ tám có tên đầy đủ là “8. Tăng cường cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, đào tạo và dạy nghề” và có 5 nội dung, cụ thể: (i) Phân bổ ngân sách cho giáo dục, đào tạo được ưu tiên trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; (ii) Thực hiện giao ngân sách giáo dục, đào tạo và dạy nghề dựa trên các định mức kinh tế - kỹ thuật và nhiệm vụ được giao; (iii) Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề công lập hiện có, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở vật chất rèn luyện thể lực và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên; (iv) Bảo đảm đủ quỹ đất cho việc xây dựng trường học phù hợp với quy hoạch các công trình phục vụ dân sinh; (v) Triển khai mạnh mẽ ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và hoạt động giáo dục, đào tạo và dạy nghề. Như vậy, các nội dung của nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ 8 trong Chương trình hành động không trực tiếp tập trung vào triển khai nhiệm vụ, giải pháp thứ 8 về nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý như đã nêu trong Nghị quyết 29.

Chương trình hành động của Chính phủ xác định một phần nội dung của nhiệm vụ, giải pháp về nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ ba “3. Đổi mới chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo”. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp đổi mới chương trình giáo dục này gồm sáu nội dung, cụ thể là: (i) rà soát, hoàn thiện chương trình giáo dục mầm non; (ii) xây dựng và phê duyệt chương trình giáo dục phổ thông mới theo tinh thần Nghị quyết 29; (iii) khuyến khích cá nhân, tổ chức tham gia biên soạn sách giáo khoa theo chương trình được phê duyệt sử dụng thống nhất toàn quốc; (iv) Rà soát, điều chỉnh chương trình giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; (v) Đổi mới chương trình giáo dục công dân, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục chính trị, quốc phòng - an ninh; (vi) “Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, khoa học giáo dục và khoa học quản lý; xây dựng và triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về giáo dục, đào tạo và dạy nghề; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong học sinh, sinh viên”.

Như vậy, thứ nhất, toàn bộ nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ ba này chủ yếu tập trung vào đổi mới chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo mà chưa tập trung vào đổi mới “mạnh mẽ, đồng bộ các yếu các yếu tố cơ bản” của cả hệ thống giáo dục và từng cơ sở giáo dục và đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Thứ hai, chỉ một phần nội dung của nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ tám của Nghị quyết 29 được triển khai ở nội dung thứ sáu, nội dung cuối cùng trong nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ ba của Chương trình hành động. Thứ ba, việc đưa nội dung nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ này vào nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ ba cho thấy nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ được xác định chủ yếu để phục vụ “đổi mới chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo” chứ chưa có vị trí, vai trò phục vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục tầm quốc gia, quốc tế như được xác định trong Nghị quyết 29.

Để thực hiện 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trên, Chương trình hành động theo Nghị quyết 44 xác định được 18 đề án. Trong đó, đáng chú nhất là một đề án tập trung phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số và ba đề án thực hiện đổi mới chương trình giáo dục các cấp học và trình độ đào tạo. Tuy nhiên, Danh mục 18 đề án vẫn thiếu đề án thực hiện nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ tám về tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý; đề án thực hiện nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ chín về chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo như được xác định rõ trong cả Nghị quyết 29 và Nghị quyết 44.

d. Kế hoạch hành động

Để thực hiện Nghị quyết 44 và Nghị quyết 29, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 2653/QĐ-BGDĐT ban hành Kế hoạch hành động của ngành giáo dục vào ngày 25-7-2014.  Kế hoạch hành động xác định rõ 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu tương ứng với Chương trình hành động ban hành kèm theo Nghị quyết 44/QĐ-CP. Vì là Kế hoạch hành động của ngành giáo dục nên các nội dung cụ thể của từng nhóm nhiệm vụ, giải pháp và các văn bản, đề án triển khai kế hoạch chủ yếu thuộc phạm vi nội bộ hệ thống giáo dục, bao gồm các nội dung về chương trình giáo dục, giáo viên, cán bộ quản lý và cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề. Cũng giống như Chương trình hành động, Kế hoạch hành động của ngành vẫn thiếu nhiệm vụ và giải pháp tập trung thực hiện việc nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý đã xác định rõ trong Nghị quyết 29.

Trong tổng số 27 văn bản, đề án triển khai Kế hoạch hành động cũng không có văn bản, đề án nào tập trung thực hiện nhiệm vụ và giải pháp phát triển nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.

Việc phân tích chính sách từ cải cách giáo dục đến đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục cho thấy mục tiêu mở rộng cơ hội đi học liên tục được thực hiện với mức độ tăng dần ở tất cả các cấp bậc giáo dục. Đồng thời mức độ phân hóa và bất bình đẳng xã hội về cơ hội đi học đã giảm mạnh ở tiểu học và trung học cơ sở. Nguyên nhân chủ yếu cần được phát huy ở đây là chính sách phổ cập tiểu học và trung học cơ sở được kiên trì thực hiện.

Cơ hội đi học đúng tuổi trung học phổ thông, mặc dù cũng được tăng lên nhiều nhưng chưa đạt mức cao và do vậy bất bình đẳng về cơ hội đi học vẫn còn diễn ra phổ biến ở nhóm dân số độ tuổi trung học phổ thông và đặc biệt rõ ở tình hình đi học đúng tuổi bậc cao đẳng, đại học. Từ đây đặt ra vấn đề cấp thiết phải tập trung đầu tư đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục có trọng tâm, trọng điểm là mở rộng hơn nữa cơ hội đi học đúng tuổi các cấp, bậc giáo dục nhằm mục tiêu phát triển bao trùm, bền vững.

Việc thực hiện chính sách đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo đòi hỏi phải tiếp tục củng cố, phát huy thành tựu phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở và tiến tới phổ cập trung học phổ thông. Tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa trong chính sách, chiến lược giáo dục cần được thực hiện thông qua việc củng cố, duy trì và mở rộng các cơ hội giáo dục từ mầm non đến đại học./.